Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Phân tích kết quả lâm sàng và biến cố bất lợi trên người bệnh Covid-19 được sử dụng thuốc Remdesivir tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Phân tích kết quả lâm sàng và biến cố bất lợi trên người bệnh Covid-19 được sử dụng thuốc Remdesivir tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec
Tác giả
Dương Thanh Hải; Khổng Trọng Thắng; Trương Ngọc Hải; Ngô Thị Thu Thủy; Nguyễn Hoàng Phương Khanh; Nguyễn Đỗ Quang Trung; Lương Thị Hải Vân; Nguyễn Lê Thùy Dung; Lý Anh Thư; Bùi Hồng Ngọc; Lê Quốc Sử; Phan Quỳnh Lan
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
193-198
ISSN
1859-1868
Từ khóa nghiên cứu
Tóm tắt

Remdesivir là thuốc kháng virus đã được chấp thuận trong điều trị bệnh nhân COVID-19 nhập viện ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu nào về remdesivir được công bố tại Việt Nam. Chính vì thế, nghiên cứu được thực hiện để phân tích kết quả điều trị và độ an toàn của remdesivir trên bệnh nhân COVID-19 tại Việt Nam. Nghiên cứu hồi cứu, mô tả thực hiện trên bệnh nhân COVID-19 từ 12 tuổi trở lên có chỉ định nhập viện và được điều trị với ít nhất một liều remdesivir từ ngày 10/08/2021 đến ngày 10/09/2021 tại Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Central Park. Kết quả điều trị được đánh giá theo thang WHO 6 điểm, biến cố thở máy ngày 14 và tử vong tại thời điểm ngày 28. Độ an toàn của remdesivir được đánh giá dựa trên tỷ lệ biến cố không mong muốn ghi nhận theo thang AIDS 2017.Kết quả: Nghiên cứu thu thập được 152 bệnh nhân COVID -19 được điều trị bằng remdesivir, trong đó hơn 50% có ít nhất 1 bệnh lý nền, chủ yếu là bệnh lý tim mạch hoặc đái tháo đường. Các bệnh nhân được dùng thuốc remdesivir trong vòng trung vị 6 ngày đầu khởi phát. Có 55,7% người bệnh cải thiện lâm sàng rõ rệt tại ngày thứ 11 so với trước khi dùng remdesivir. Chỉ có 14,6% bệnh nhân tiến triển nặng phải thở máy xâm nhập tính đến ngày thứ 14. Tỷ lệ tử vong ở ngày thứ 28 là 12,5%. Các biến cố bất lợi được ghi nhận ở bệnh nhân dùng thuốc bao gồm tăng men gan (29,6%), hạ kali (26,3%), giảm độ lọc cầu thận (17,8%), chậm nhịp tim (11,2%) và kéo dài thời gian prothrombin (15,1%). Các yếu tố tiên lượng nặng lâm sàng bao gồm tuổi cao; mắc ít nhất một bệnh lý nền (COPD, tim mạch, đái tháo đường); người cần hỗ trợ thở oxy dòng cao HFNC, thở máy không xâm nhập hoặc thở máy xâm nhập;chỉ số ROX, tăng chỉ số viêm PCT, D-Dimer, ferritin; giảm số lượng bạch cầu lympho trước khi điều trị.

Abstract

Remdesivir is an antiviral drug that has been approved for the treatment of hospitalized COVID-19 patients in many countries, including Vietnam. However, clinical data of remdesivir is lacking in Vietnam. This study was carried out to investigate clinical outcome and safety of remdesivir in the treatment of COVID-19 in Vietnam. A retrospective observational study was performed in all hospitalized COVID-19 patients 12 years of age and older treated with at least one dose of remdesivir from 10 August 2021 to 10 September 2021 at Vinmec Central Park Hospital. The clinical outcome was measured by the WHO 6-point scale, mechanical ventilation at day 14, and 28-day mortality. The safety of remdesivir was evaluated based on the 2017 AIDS scale. Results: 152 patients were enrolled in this study with more than 50% had at least one comorbidity, mainly cardiovascular diseases or diabetes. Patients was treated with remdesivir at median 6 days after onset. 55.7% patients had significant clinical improvement at day 11. In this study, 14.6% of patients received invasive mechanical ventilation on day 14. The 28-day mortality was 12.5%. The most commonly reported adverse events included elevation of liver enzymes (29.6%), hypokalemia (26.3%), decreased glomerular filtration rate (17.8%), bradycardia (11.2%) and prolongation of prothrombin time (15.1%). Risk factor for poor outcome were advanced age, having at least one comorbidity, low ROX score, requirement of HFNC, non-invasive ventilation or invasive mechanical ventilation; elevated PCT, D-Dimer, ferritin; decreased lymphocyte count at baseline.