Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Phương thức và biến chứng lọc máu liên tục ở trẻ sốt xuất huyết Dengue

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Phương thức và biến chứng lọc máu liên tục ở trẻ sốt xuất huyết Dengue
Tác giả
Nguyễn Hà Phương; Phùng Nguyễn Thế Nguyên
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
204-208
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Lọc máu liên tục là tập hợp các phương thức điều trị nhằm loại bỏ ra khỏi máu liên tục và chậm rãi các chất độc (nội sinh hoặc ngoại sinh), dịch và điện giải. Được chỉ định chọn lọc, ở bệnh nhân có hoặc không có suy thận. Nghiên cứu này mô tả tỷ lệ các phương thức lọc, số lần lọc, thời gian lọc máu và biến chứng liên quan đến kỹ thuật lọc máu ở trẻ sốt xuất huyết dengue. Đối tượng và phương pháp: mô tả 40 trẻ sốt xuất huyết dengue nặng được lọc máu liên tục tại Khoa Hồi sức tích cực – chống độc, Bệnh viện Nhi Đồng 1 và Khoa Nhiễm, Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 01/01/2017 đến 31/12/2021. Kết quả: Phương thức lọc máu: có 18 bệnh nhân (45,0%) được lọc máu liên tục bằng phương thức CVVHDF đơn thuần, 18 bệnh nhân (45,0%) được lọc máu liên tục bằng phương thức CVVHDF kết hợp với thay huyết tương và 10% bệnh nhân được lọc máu bằng phương thức CVVH. Không có bệnh nhân được lọc máu liên tục bằng phương thức CVVHD hoặc kết hợp 2 phương thức lọc máu trên cùng 1 bệnh nhân. Có 2 (5,0%) trường hợp được khởi động và hoàn tất thay huyết tương chu kỳ đầu trong 24 giờ đầu lọc máu liên tục, 16 trường hợp (40,0%) thay huyết tương kết hợp lọc máu liên tục còn lại đều khởi động sau 24 giờ đầu tiên lọc máu, không có trường hợp nào vừa lọc máu và thay huyết tương đồng thời. Thông số kỹ thuật: Thời điểm lọc máu chủ yếu là ngày thứ 7 của bệnh, trường hợp được lọc máu liên tục sớm nhất là ngày thứ 5 của bệnh và trễ nhất là ngày thứ 14 của bệnh. Thời gian lọc máu liên tục thay đổi theo từng bệnh nhân, kết thúc sớm nhất là 25 giờ và kéo dài nhất là 668 giờ 15 phút. Tốc độ bơm máu: 4,8 ± 0,9 ml/kg/giờ; thể tích dịch thẩm tách: 29,2 ± 8,9 ml/kg/giờ; thể tích dịch thay thế: 28,9 ± 13,8 ml/kg/giờ; thể tích dịch lấy ra 3,1 (2,1 – 4,3) ml/kg/giờ, liều lọc máu: 55,2 ± 14,9 ml/kg/giờ. Tất cả bệnh nhân không dùng Heparin chống đông liều tấn công; 32,5% bệnh nhân dùng Heparin liều duy trì. Biến chứng của lọc máu liên tục: biến chứng thường gặp là đông màng lọc 57,5% và hạ thân nhiệt 55,0%; tiếp theo đó là các biến chứng liên quan đến bệnh nhân như giảm tiểu cầu 30%, hạ huyết áp 22,5%, xuất huyết phổi sau khi tiến hành lọc máu 15,0%. Có 2 trường hợp bệnh nhân nhiễm trùng huyết liên quan đến catheter khi cấy máu ra tác nhân Klebsiellae spp và nấm Candida spp. Kết luận: 90% bệnh nhân được lọc máu liên tục bằng phương thức CVVHDF đơn thuần hoặc CVVHDF kết hợp thay huyết tương. Tất cả bệnh nhân đều không dùng Heparin chống đông liều tấn công. Thời điểm lọc máu thường là vào ngày thứ 7 của bệnh. Thời gian lọc máu liên tục thay đổi theo từng trường hợp bệnh nhân. Đông màng là biến chứng thường gặp nhất, kế đó là hạ thân nhiệt, giảm tiểu cầu, hạ huyết áp.

Abstract

Continuous renal replacement therapy (CRRT) is a set of treatment modalities aimed at the continuous and slow removal of toxins (endogenous or exogenous), fluids and electrolytes, etc., for patients with indicated indications with or without renal failure. This study describes the prevalence of dialysis modalities, number of dialysis sessions, dialysis duration and complications associated with dialysis technique in dengue hemorrhagic fever children. Materials and methods: Descriptive 40 children with severe dengue hemorrhagic fever were continuously dialysis at the Intensive Care Unit - Anti-poisoning Department of Children's Hospital 1 and the Department of Infection of Children's Hospital 2 from January 1, 2017 to December 31, 2021. Results: Dialysis method: in our study, there were 18 cases of patients (45,0%) receiving CRRT by CVVHDF alone and 18 cases of patients (45,0%) receiving dialysis. Continuous hemodialysis by CVVHDF combined with plasma exchange. 10% of patients are dialysis by CVVH method. There were no cases of patients receiving continuous dialysis using CVVHD or a combination of 2 dialysis methods on the same patient. In our study, 2 (5,0%) cases were initiated and completed the first cycle of plasma exchange in the first 24 hours of continuous dialysis, 16 cases (40,0%) of plasma exchange. The remaining CRRT cases are started after the first 24 hours of dialysis. Specifications: The time of CRRT is mainly the 7th day of the disease, the case is started on continuous dialysis as early as the 5th day of the disease and the 14th day of the disease at the latest. Time varies from patient to patient, the earliest case ending is 25 hours and the longest is 668 hours and 15 minutes. Blood pumping rate: 4,8 ± 0,9 ml/kg/h; volume of dialysate: 29,2 ± 8,9 ml/kg/hour; replacement volume: 28,9 ± 13,8 ml/kg/hour; volume of fluid removed: 3,1 (2,1 – 4,3) ml/kg/hour; dialysis dose: 55,2 ± 14,9 ml/kg/hour. 100% of patients did not use the loading dose of Heparin anticoagulant; 32,5% of patients received maintenance dose of Heparin. Complications of CRRT: common complications in our study were membrane coagulation 57,5% and hypothermia 55,0%. Followed by patient-related complications such as thrombocytopenia 30%, hypotension 22,5%, pulmonary hemorrhage after dialysis 15,0%. There were 2 cases of patients with catheter-related sepsis when blood cultures were caused by Klebsiella and Candida spp. Conclusions: The majority of patients received continuous dialysis using CVVHDF alone or CVVHDF combined with plasma exchange. All patients were not receiving the loading dose of Heparin. The time of dialysis is usually on the 7th day of illness. Dialysis time continuously varies from patient to patient. Coagulation is the most common complication, followed by hypothermia, thrombocytopenia, and hypotension.