
So sánh đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng giữa nhóm sản phụ đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) điều trị tiết chế và điều trị Insulin tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 248 sản phụ mắc ĐTĐTK và kết thúc thai kỳ tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ tháng 02/2021 đến tháng 9/2023. Kết quả: Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 32,30 ± 5,69; sản phụ trên 35 tuổi là YTNC làm thay đổi phương pháp điều trị ĐTĐTK. Tiền sử đẻ non, tiền sử lưu thai 3 tháng cuối không rõ nguyên nhân, tiền sử đẻ con to lần lượt là 5,24%; 2,02% và 8,87%. Tỷ lệ sản phụ thừa cân - béo phì là 31,04%; BMI trước mang thai không phải là yếu tố ảnh hưởng đến phương pháp điều trị ĐTĐTK. Có 4,84% sản phụ có tình trạng tăng huyết áp và/hoặc tiền sản giật; tình trạng này làm tăng nguy cơ phải điều trị ĐTĐTK bằng Insulin lên 4,91 lần. Kết luận: Tuổi mẹ và tình trạng tăng huyết áp/tiền sản giật là các yếu tố ảnh hưởng đến phương pháp điều trị ĐTĐTK.
The study aims to compare clinical and sub-clinical characteristics between pregnant women with gestational diabetes mellitus treated with Insulin and lifestyle change at Nghe An Hospital of Obstetrics and Pediatrics in 2023. Subjects and methods: An observational study among 248 pregnant women with GDM and delivery at Nghe An Hospital of Obstetrics and Pediatrics from 02/2021 to 9/2023. Result: The average age is 32,30 ± 5,69; women over 35 years old are at high risk of GMD treatment method. The rate of pregnant women with a history of spontaneous preterm delivery, stillbirth in 3rd trimester, and macrosomia is 5,24%; 2,02%, and 8,87% respectively. The rate of gestational hypertension and/or pre-eclampsia is 4,84%, and that status increases the risk of Insulin treatment 4,91 times. Conclusion: Maternal age and gestational hypertension/pre-eclampsia are risks of changing GDM treatment
- Đăng nhập để gửi ý kiến