Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

So sánh hiệu quả phong bế mặt phẳng cơ răng trước với phong bế thần kinh ngực trong phẫu thuật lồng ngực có nội soi hỗ trợ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
So sánh hiệu quả phong bế mặt phẳng cơ răng trước với phong bế thần kinh ngực trong phẫu thuật lồng ngực có nội soi hỗ trợ
Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh; Nguyễn Quốc Kính; Lưu Quang Thùy
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
365-369
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

So sánh hiệu quả phong bế mặt phẳng cơ răng trước (SAPB) với phong bế thần kinh ngực (PEC II) bằng Ropivacain 0,375% 15ml trong phẫu thuật lồng ngực có nội soi hỗ trợ (VATS). 2.Đánh giá tác dụng không mong muốn của hai phương pháp này. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, ngẫu nhiên và có đối chứng trên 62 bệnh nhân phẫu thuật VATS, chia thành 2 nhóm được gây tê dưới hướng dẫn siêu âm bằng Ropivacain 0,375% 15ml trước phẫu thuật: nhóm I: SAPB, nhóm II: PEC II. Gây mê thường quy, sau rút nội khí quản lắp giảm đau PCA morphin cho cả 2 nhóm khi VAS >4, số liệu được mã hoá và xử lý theo các phương pháp thống kê. Kết quả nghiên cứu: Phương pháp gây tê SAPB và gây tê PEC II dưới hướng dẫn siêu âm đơn giản, dễ thực hiện. Thời gian bắt đầu tác dụng, chu vi vùng phong bế không khác biệt giữa hai nhóm, nhưng SAPB phong bế vùng nách tốt hơn, PEC II phong bế về phía cạnh ức tốt hơn. Thời gian tác dụng của SAPB là 434 ± 134 phút dài hơn đáng kể PEC II 197 ± 86 phút. SAPB và PEC II đều cho hiệu quả tương đương để giảm đau trong và sau phẫu thuật VATS. Lượng Fentanyl trong mổ, lượng morphin sau mổ, điểm VAS trung bình khi nghỉ/vận động/ khi ho trong 72h sau phẫu thuật ở hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Thời gian yêu cầu morphin đầu tiên được trì hoãn đáng kể ở nhóm SAPB 6.2± 1.3 giờ so với 3.3 ± 1.1 giờ ở nhóm PEC II liên quan đến thời gian tác dụng. Tác dụng không mong muốn của 2 nhóm đều thấp và không nguy hiểm. Kết luận: nhóm SAPB có hiệu quả giảm đau trong và sau mổ VATS tương đương với PEC II nhưng có thời gian tác dụng dài hơn.

Abstract

Compare the effectiveness of Serratus anterior plane block (SAPB) with Pectoral nerve block (PEC II) with Ropivacaine 0.375% 15ml in Video assisted thoracic surgery (VAT). Side-effects of two methods. Methods: Clinical intervention study, randomized and controlled on 62 patients undergoing VATS surgery, divided into 2 groups under ultrasound-guided anesthesia with Ropivacaine 0.375% 15ml before surgery: group I: SAPB, group II: PEC II. Routine anesthesia, after extubation with PCA morphine analgesia for both groups when VAS >4, data were coded and processed according to statistical methods. Research results: SAPB and PEC II anesthesia under ultrasound guidance are simple and easy to perform. The time of onset of action, the circumference of the block did not differ between the two groups, but SAPB had better axillary block, and PEC II had better sternal block. The duration of action of SAPB was 434 ± 134 min. significantly longer than PEC II 197 ± 86 minutes. SAPB and PEC II were equally effective for pain relief during and after VATS surgery. The amount of fentanyl during surgery, the amount of morphine after surgery, the average VAS score at rest/exercise/cough in 72 hours after surgery in the two groups had no statistically significant differences. Time to first morphine request was significantly delayed in the SAPB group by 6.2±1.3 hours compared with 3.3±1.1 hours in the PEC II group with respect to duration of action. Side effects of the 2 groups are low and not dangerous. Conclusion: SAPB group had the same effectiveness in reducing pain during and after VATS surgery as PEC II but had a longer duration of action.