Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

So sánh kết quả sau đặt stent ống động mạch có và không phủ thuốc trên bệnh nhân tim bẩm sinh tuần hoàn phổi phụ thuộc ống động mạch tại Bệnh viện Nhi Đồng 2

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
So sánh kết quả sau đặt stent ống động mạch có và không phủ thuốc trên bệnh nhân tim bẩm sinh tuần hoàn phổi phụ thuộc ống động mạch tại Bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả
Hoàng Quốc Tưởng; Vũ Minh Phúc; Nguyễn Minh Trí Việt
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
2-CD1
Trang bắt đầu
95-103
ISSN
1859-1779
Tóm tắt

So sánh kích thước mạch máu phổi, tỉ lệ tử vong, tắc và tái hẹp stent ống động mạch (ÔĐM) sau can thiệp ≥3 tháng giữa hai nhóm stent có và không phủ thuốc trên bệnh TBS THPPTÔĐM. Đối tượng và phương pháp nghiện cứu: nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trong thời gian từ tháng 01 - 2017 đến 04 - 2020 có 102 ca thoả tiêu chí trong nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả: sau ≥3 tháng, chỉ số NAKATA và Mc Goon trung bình ở 2 nhóm đặt stent không có sự khác biệt. Tỉ lệ tử vong ở nhóm đặt stent có và không phủ thuốc lần lượt là 5,8% và 4,8%. Tỉ lệ tắc stent ở nhóm đặt stent có và không phủ thuốc lần lượt là 0% và 1,5%. Tỉ lệ tái hẹp sau ≥3 tháng ở ở nhóm đặt stent có và không phủ thuốc lần lượt là 67,6% và 70,5%. Nhóm stent không phủ thuốc xu hướng tái hẹp sớm ở thời điểm 3 - 6 tháng chiếm 51,5% so với nhóm được đặt stent có phủ thuốc là 23,5% ở cùng thời điểm. Kết luận: Nhóm đặt stent không phủ thuốc có xu hướng tái hẹp sớm ở thời điểm 3 - 6 tháng nhiều hơn nhóm được đặt stent có phủ thuốc.

Abstract

There have been no clinical studies evaluating the use of drug-eluting stents (DES) versus bare metal stents (BMS) for infants who underwent ductus arteriosus stent placement for ductal-dependent pulmonary blood flow in VietNam. We aimed to compare the use of first-generation DES to BMS in infants who underwent ductus arteriosus stenting for duct dependent pulmonary circulation. Objective: the goal is to compare the outcome of infants who underwent ductus arteriosus stenting for ductal-dependent pulmonary blood flow f-rom January 2017 to April 2020 at Department of Cardiology in children Hospital # 2. Method: A retrospective study was performed on 102 patients (68 BMS and 34 DES) who met inclusion criteria. Results: At the time of ≥3 months after stent implantation, according to the NAKATA index, the figures for the DES and BMS group were 350.2 ± 201.4 mm2 /m2 and 289.8 ± 128.8 mm2 /m2 . As for the Mc Goon Index, the value were 1.9 ± 0.4 and 1.8 ± 0.3, respectively. Mortality rates in the DES and BMS group was 5.8% and 4.8%. The rates of stent blockage in the DES and BMS group was 0% and 1.5%. In the group receiving DES, 67.6% of the patients had stent stenosis in comparision to 70.5 % in the BMS group. Between 3 and 6 months after stent implantation. The rate of stent stenosis was 51.5% in BMS as opposed to 23.5% in DES group; p = 0.007. Conclusion: There were no statistically significant differences between those receiving DES and those receiving BMS in the composite outcome of death, stent blockage or stenosis after ≥ 3 months stenting. However, stent stenosis occurs earlier in in the BMS group than DES group during the period f-rom 3 to 6 months after ductus arteriosus stenting.