Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tắc động mạch phổi cấp nguy cơ cao: Nghiên cứu mô tả đầu tiên được báo cáo tại Việt Nam

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tắc động mạch phổi cấp nguy cơ cao: Nghiên cứu mô tả đầu tiên được báo cáo tại Việt Nam
Tác giả
Nguyễn Thị Mơ; Hoàng Bùi Hải
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
12V1
Trang bắt đầu
220-227
ISSN
2354-080X
Tóm tắt

Nghiên cứu nhằm mô tả triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và hình ảnh ở bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp nguy cơ cao và tỷ lệ tử vong của thể bệnh này. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 24 bệnh nhân được chẩn đoán tắc động mạch phổi cấp nguy cơ cao tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Bạch Mai. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là khó thở (20/24 bệnh nhân, chiếm 83,3%), đau ngực (10/24 bệnh nhân, chiếm 41,7%). Có 6/24 (25%) bệnh nhân có ngừng tuần hoàn; 14/24 (58,3%) bệnh nhân suy hô hấp phải thở máy. Chỉ số vận mạch trung bình là 51 và cao hơn ở nhóm có ngừng tuần hoàn. Trên phim chụp cắt lớp vi tính, tắc động mạch phổi trung tâm xuất hiện ở 17/23 bệnh nhân, chiếm 73,9%. Có 91,7% (22/24) bệnh nhân có giãn thất phải trên siêu âm tim. Tiêu sợi huyết là biện pháp điều trị được lựa chọn nhiều nhất (15/24 bệnh nhân, chiếm 62,5%), 2 bệnh nhân được hồi sức bằng ECMO (8,3%). Tỷ lệ tử vong sau 30 ngày ở nhóm tắc động mạch phổi cấp nguy cơ cao trong nghiên cứu là 41,7%.

Abstract

High-risk pulmonary embolism (PE) is a life-threatening disorder associated with high mortality. The purpose of this study is to elucidate the clinical characteristics, laboratory investigations, and imaging findings and report the treatment outcome of these patients. This cross-sectional study included 24 patients diagnosed with high-risk acute pulmonary embolism at Hanoi Medical University Hospital and Bach Mai Hospital. The most common clinical symptom was dyspnea (20/24 patients, 83.3%) and chest pain (10/24 patients, 41.7%). Mechanical ventilation was administered to 14 of 24 patients (58.3%), 6/24 (25%) patients had cardiac arrest. The mean Vasoactive Inotrope Score was 51 and higher in the group with cardiac arrest. On computed tomography, central pulmonary artery occlusion accounted for 73.9% (17/23 patients). On echocardiography, 22 of 24 (91.7%) had right ventricular dilatation. Thrombolysis was the most common selected treatment (15/24, 62.5%), 2/24 patients were resuscitat with ECMO (8.3%). The 30-day mortality rate of the high-risk acute pulmonary embolism in our study was 41.7%. High-risk pulmonary embolism had nonspecific symptoms, required resuscitation, and had a high mortality rate. Early detection and prompt treatment are needed to reduce mortality in this group.