
Mô tả thực trạng sử dụng thuốc sinh học (bDMARD) trong điều trị viêm khớp dạng thấp (VKDT) tại khoa Cơ Xương Khớp- Bệnh viện Bạch Mai (khoa CXK-BVBM) và xác định một số yếu tố ảnh hưởng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu kết hợp hồi cứu trên 71 bệnh nhân VKDT có dùng bDMARDs tại địa điểm nghiên cứu từ 01/2017 đến 12/2020. Kết quả: bDMARD hay được chọn đầu tiên là thuốc ức chế IL-6 (83,1%), có 29,1% bệnh nhân chuyển sang bDMARD thứ 2 (thường gặp nhất là chuyển sang nhóm ức chế TNF), thời gian duy trì thuốc của nhóm ức chế IL-6 là 131 tuần (CI95%: 108,2-153,8); của nhóm ức chế TNF là 46 tuần (CI95%: 10,4-81,6), (p=0,007). Tỉ lệ tuân thủ điều trị thấp (29,6%). Lý do hàng đầu của không tuân thủ điều trị là kinh tế (35,6%) và đáp ứng tốt (31,4%); của giãn liều là đáp ứng tốt (62%) và kinh tế (24,6%); của dừng thuốc là do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 (40,6%), hết thuốc (21,7%) và kinh tế (20,3%); và của đổi thuốc là không đáp ứng (30,3%), hết thuốc (36,4%) vàkinh tế (27,3%). Kết luận: bDMARDs nhóm ức chế IL-6 được lựa chọn để khởi đầu điều trị nhiều nhất và có thời gian duy trì lâu hơn nhóm ức chế TNF. Tỉ lệ tuân thủ điều trị thấp và lý do chính của không tuân thủ là không đủ khả năng tài chính. Các yếu tố như không đủ khả năng tài chính, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và hết thuốc, hoặc không đáp ứng với bDMARDs điều trị là những lý do chính khiến cho bệnh nhân đổi hay dừng thuốc.
Describe the current status of using biological drugs in the treatment of rheumatoid arthritis patients at the Department of Rheumatology - Bach Mai Hospital and identify some influencing factors. Subjects and methods: A prospective cross-sectional descriptive study combined with a retrospective on 71 rheumatoid arthritis patients receiving biologic drugs at the study site f-rom January 2017 to December 2020. Results: The first-line bDMARD of choice was IL-6 inhibitor (83.1%), 29.1% of patients switching to the second biologic drug (the most common being TNF inhibitor), The maintenance time of the IL-6 inhibitor group was 131 weeks (CI95%: 108,2-153,8), of the TNF inhibitor group was 46 weeks (CI95%: 10,4-81,6) (p=0.007). The rate of adherence was low (29.6%). The leading reasons for non-adherence to treatment were economic (35.6%) and good response (31.4%); for dosage reduction were responsive (62%) and economical (24.6%); for bDMARD discontinuation were due to the effects of the Covid-19 pandemic (40.6%), drug shortage (21.7%) and economy (20.3%); and for drug switching were non-response (30.3%), drug shortage (36.4%), and economical (27.3%). Conclusion: Biologic drugs with IL-6 inhibitors were chosen for the most initiation of treatment and had a longer maintenance time than TNF inhibitors. Adherence rates were low and the main reason for non-adherence was financial incompetence. The main reasons for switching or discontinuing bDMARDs were factors such as financial incompetence, the impact of the Covid-19 pandemic and drug shortages, or non-response with bDMARD.
- Đăng nhập để gửi ý kiến