Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tỉ lệ rối loạn đông cầm máu và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân nhiễm trùng huyết sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tỉ lệ rối loạn đông cầm máu và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân nhiễm trùng huyết sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả
Lê Quỳnh Anh; Nguyễn Kiến Mậu; Trần Thị Hoài Thu
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
146-153
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định tỉ lệ rối loạn đông cầm máu trong nhiễm trùng huyết sơ sinh và các yếu tố liên quan tại Khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1 TP.HCM. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 97 trường hợp nhiễm trùng huyết sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 12/2022 đến tháng 08/2023. Kết quả: Đa số bệnh nhân nhiễm trùng huyết sơ sinh là trẻ đủ tháng và đủ cân, tỉ lệ nam/nữ là 1,6/1. 80,4% trường hợp khởi phát muộn. Các triệu chứng thường gặp nhất lần lượt là bú kém (81,4%), không dung nạp dinh dưỡng đường miệng (64,9%) và sốt (60,8%). Có 59,8% bệnh nhân có xuất huyết ở ít nhất một cơ quan, trong đó xuất huyết tiêu hóa chiếm đa số. Số bệnh nhân được truyền máu và/hoặc chế phẩm máu chiếm 46,4%. Đa số trẻ nhiễm trùng huyết sơ sinh biểu hiện rối loạn đông cầm máu theo kiểu giảm đông: 54,6% bệnh nhân giảm tiểu cầu, 53,6% giảm PT%, 23,7% kéo dài aPTT, 20,6% giảm fibrinogen, 47,4% tăng D-dimer. Đông máu nội mạch lan tỏa (DIC) chiếm 16,5%. Trẻ nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Gram âm có nguy cơ DIC cao gấp 8,3 lần so với nhóm Gram dương. Tỉ lệ xuất huyết và tử vong ở trẻ nhiễm trùng huyết sơ sinh có rối loạn đông cầm máu cao hơn so với nhóm không có rối loạn. Kết luận: Bệnh nhi nhiễm trùng huyết sơ sinh, đặc biệt những trường hợp có biểu hiện xuất huyết nên được làm các xét nghiệm đông cầm máu sớm để phát hiện sớm các rối loạn và điều trị kịp thời, ngăn ngừa tình trạng rối loạn đông cầm máu diễn tiến nặng dần dẫn đến DIC và tử vong.

Abstract

Identifying the prevalence of coagulation disorders in neonatal sepsis and related factors at the Neonatal Department, Children's Hospital 1, Ho Chi Minh City. Methods: Cross-sectional study on 97 cases of neonatal sepsis at Children's Hospital 1 from December 2022 to August 2023. Results: Most patients with neonatal sepsis are full-term and normal birth weight, male/female ratio is 1.6/1. 80.4% neonates have late onset sepsis. The most common symptoms were poor feeding (81,4%), oral nutrition intolerance (64.9%), and fever (60.8%), respectively. 59.8% of patients had bleeding in at least one organ, of which gastrointestinal bleeding accounted for the majority. The number of neonatal sepsis patients receiving blood and/or blood product transfusions accounted for 46.4%. The majority of children with neonatal sepsis show hemostatic disorders in the form of hypocoagulation: 54.6% of patients had thrombocytopenia, 53.6% of patients had decreased PT%, 23.7% of patients had prolonged aPTT, 20.6% of patients had decreased fibrinogen, 47.4% of patients had increased D-dimer. Disseminated intravascular coagulation (DIC) accounts for 16.5% of cases. Neonatal with sepsis caused by Gram-negative bacteria had a risk of DIC that is 8.3 times higher than the Gram-positive group. The bleeding and mortality rate in neonatal sepsis patients with coagulation disorders is higher than in the group without disorders. Conclusions: Neonatal sepsis patients, especially those with bleeding symptoms, should be tested to detect coagulation disorders early and treat them promptly to prevent overt haemostatic dysfuction, which may leads to DIC and death.