
Mô tả kết quả điều trị can thiệp mạch vành qua da, thời gian cửa – bóng và biến cố tim mạch chính và tử vong nội viện và 30 ngày sau xuất viện ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp do tắc động mạch mũ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tất cả BN được chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp và được chụp – can thiệp mạch vành qua da có tổn thương thủ phạm là động mạch vành mũ tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2019 đến tháng 6/2020. Nhồi máu cơ tim cấp được chẩn đoán theo định nghĩa toàn cầu về NMCT cấp lần thứ IV, các bệnh nhân nghiên cứu được phân thành 3 nhóm gồm nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, ST chênh xuống và ST không chênh. Thành công về mặt thủ thuật khi hẹp tồn lưu nhỏ hơn 30% và không tử vong, không tái thông lại tổn thương đích trong thời gian nằm viện, ghi nhận thời gian cửa – bóng, tử vong và biến cố tim mạch trong thời gian nằm viện và 30 ngày sau xuất viện. Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu thu thập được 107 bệnh nhân, tỉ lệ 3 nhóm nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, ST chênh xuống và ST không chênh lần lượt là 57%, 14% và 29%. Thành công về mặt thủ thuật là 95,3%. Thời gian cửa-bóng lần lượt ở 3 nhóm 200 ± 164 phút; 269 ± 172 phút; 350 ± 177 phút, khác biệt có ý nghĩa p<0,001. Thời gian cửa bóng <90 phút ở nhóm STCL cao hơn nhóm STKC với p=0,026. Tử vong nội viện và 30 ngày là 4,7% không khác biệt giữa các nhóm. Biến cố tim mạch nội viện là 12,1% và 30 ngày là 13%, không khác biệt có ý nghĩa giữa ba nhóm. Kết luận: Một phần hai trường hợp nhồi máu cơ tim cấp có biểu hiện ST chênh lên, thời gian cửa-bóng <90 phút ở nhóm có biến đổi ST cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không có biến đổi ST. Chưa có sự khác biệt về tử vong và biến cố tim mạch ở nhóm có biến đổi ST và nhóm không biến đổi ST.
The study was aimed to describe the results of percutaneous coronary intervention treatment, major cardiovascular events inhospital and 30-day post-discharge mortality. Methods: A cross-sectional descriptive study of acute myocardial infarction patients underwent percutaneous coronary intervention with the culprit lesion in circumflex coronary occlusion at Cho Ray hospital from October 2019 to June 2020. Acute myocardial infarction was diagnosed according to the fourth global definition of acute myocardial infarction. All patients were divided into 3 groups: ST-segment elevation acute myocardial infarction (ST-E), isolated ST segment depression (ST-D), and negligible ST-segment changes (No-ST). Results: A total of 107 eligible patients were included. Prevalence of three groups ST-E, ST-D and No-ST was 57%, 14% and 29% respectively. The procedural success was 95.3%. Door-toballoon time in 3 groups respectively 200 ± 164 minutes; 269 ± 172 minutes; 350 ± 177 minutes, p<0.001. Door-balloon time less than 90 minutes in the ST-E group was higher than in the No-ST group, p=0.026. In-hospital and 30-day mortality were 4.7%. In-hospital cardiovascular events were 12.1% and 30-day events were 13%, with no significant difference between the three groups. Conclusions: One-half of cases of circumflex artery-related myocardial infarction present ST-T changes, door-to-balloon time less than 90 minutes in the group with ST changes was significantly higher than in the group without ST changes. There was no difference in mortality and cardiovascular events in the group with ST changes and the group without ST changes.
- Đăng nhập để gửi ý kiến