Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tình hình sử dụng các phương pháp y học cổ truyền điều trị liệt mặt ngoại biên nguyên phát

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tình hình sử dụng các phương pháp y học cổ truyền điều trị liệt mặt ngoại biên nguyên phát
Tác giả
Nguyễn Minh Huệ; Lưu Quốc Hải; Tăng Khánh Huy; Lê Bảo Lưu
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
258-262
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Khảo sát tình hình sử dụng các phương pháp Y học cổ truyền (YHCT) điều trị Liệt mặt ngoại biên nguyên phát theo từng hội chứng lâm sàng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, hồi cứu trên hồ sơ bệnh án của 114 người bệnh (NB) có chẩn đoán liệt mặt ngoại biên nguyên phát theo ICD-10, mã G51.0 (Liệt Bell) từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2020 tại các khoa nội trú thuộc Bệnh viện YHCT Thành phố Hồ Chí Minh, thống kê và phân tích tỷ lệ sử dụng các phương pháp điều trị YHCT theo từng hội chứng lâm sàng. Kết quả: Hội chứng Phong hàn phạm kinh lạc có phương pháp điều trị chủ yếu là kết hợp thuốc thành phẩm (TTP) + phương pháp không dùng thuốc (PPKDT) (95,71%), hội chứng Phong nhiệt phạm kinh lạc và Huyết ứ kinh lạc chủ yếu kết hợp Thuốc thang với TTP và PPKDT (tỷ lệ lần lượt là 80,39% và 75%). Đa số người bệnh được điều trị kết hợp bằng thuốc Đối pháp lập phương và TTP. Phương pháp Ôn châm + Thủy châm (18,18%) được sử dụng nhiều nhất trong Phong hàn phạm kinh lạc, trong khi phương pháp Ôn châm + Xoa bóp bấm huyệt (XBBH) (60%) sử dụng nhiều nhất trong Phong nhiệt phạm kinh lạc và phương pháp Hào châm + Thủy châm + XBBH (58,33%) trong Huyết ứ kinh lạc, việc kết hợp các PPKDT có sự khác nhau giữa các hội chứng lâm sàng lâm sàng có ý nghĩa thống kê (p=0,024). Kết luận: Trên người bệnh Liệt mặt ngoại biên nguyên phát điều trị tại Bệnh viện YHCT Thành phố Hồ Chí Minh, phương pháp được sử dụng nhiều nhất là sử dụng TTP kết hợp PPKDT. Đối với PP dùng thuốc, người bệnh đa số sử dụng bài thuốc đối pháp lập phương. Trong các PPKDT có sự kết hợp khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các hội chứng lâm sàng.

Abstract

Survey on the situation of using traditional medicine methods to treat primary peripheral facial paralysis according to each traditional medicine clinical patterns. Subjects and Methods: A retrospective cross-sectional observational study was conducted on the medical records of 114 patients diagnosed with primary peripheral facial paralysis according to ICD-10, code G51.0 (Bell's Palsy) from January 2019 to December 2020 at the inpatient departments of Ho Chi Minh City’s Traditional Medicine Hospital. The study analyzed the utilization rates of traditional medicine methods based on clinical patterns. Results: in the wind-cold syndrome, combined finished pharmaceuticals with non-medication method (95.71%) is the most common method, in the wind-heat and blood stasis syndrome: mainly combined traditional medicine with finished pharmaceuticals and non-medication method (80.39% and 75%, respectively). Most patients were treated with a combination of symptoms-analysed-based prescription and finished pharmaceuticals. The warm-acupuncture and acupuncture-point injection method (18.18%) were used mostly in the wind-cold syndrome, while warm-acupuncture and massage-acupressure method (60%) in the wind-heat syndrome; the acupuncture and acupuncture-point injection and massage-acupressure (58.33%) in blood stasis syndrome, the combination of non-medication methods had a statistically significant difference between clinical diseases (p=0,024). Conclusion: The most common method used by primary peripheral facial paralysis patients at Ho Chi Minh City’s Traditional Medicine Hospital was finished pharmaceuticals combined with non-medication methods. For medication use, almost patients use symptoms-analysed-based prescription. Among the treatment methods, there are statistically a significant difference between clinical types.