Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tình trạng dinh dưỡng và thực trạng nuôi dưỡng của bệnh nhân suy tim cấp tại Viện Tim mạch Việt Nam 2020

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tình trạng dinh dưỡng và thực trạng nuôi dưỡng của bệnh nhân suy tim cấp tại Viện Tim mạch Việt Nam 2020
Tác giả
Nguyễn Thị Huế; Phạm Minh Tuấn
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
01
Trang bắt đầu
50-59
ISSN
2354-080X
Tóm tắt

Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân suy tim cấp ảnh hưởng đến việc điều trị và phương pháp nuôi dưỡng trong thời gian nằm viện. Nghiên cứu trên 103 bệnh nhân, khi nhập viện tỷ lệ SDD theo BMI chung là 20,4%, ở nhóm suy tim cấp không phù SDD chiếm 20% (nam 22,2% cao hơn nữ là 15,4%). Tỷ lệ nguy cơ dinh dưỡng cao theo thang điểm mNUTRIC là 35,9%, tỷ lệ nguy cơ cao ở nam (30,3%) thấp hơn ở nữ (45,9%) sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong 1 tuần nằm viện bệnh nhân giảm nhiều nhất 8kg và tăng nhiều nhất 7,3kg. Gián đoạn nuôi dưỡng chiếm 60,2%. Lý do gây gián đoạn cao nhất là tồn dư dịch dạ dày cao chiếm 33,9%, làm thủ thuật chiếm 26,2%. Khẩu phần ăn: Năng lượng thực tế đạt được cao nhất chiếm 66,5% lượng cung cấp. Tỷ lệ bệnh nhân đạt mức năng lượng 25 - 30 kcal/kg/ngày thấp nhất vào ngày đầu tiên (6,8%), cao nhất vào ngày thứ 7 (17,2%). Cần chú ý đánh giá TTDD và khẩu phần ăn, gián đoạn nuôi dưỡng để có biện pháp can thiệp kịp thời.

Abstract

The nutritional status of patients with acute heart failure affects their treatment and dietary support in the hospital. Among 103 in-patients, 20.4% have malnutrition according to the general BMI; 20% of acute heart failure patients without edema are malnourrished (male 22.2% higher than female 15.4%). While the rate of malnutrition according to the NUTRIC scale was 35.9%, the high risk rate in men (30.3%) is lower than in women (45.9%) the difference is not statistically significant (p < 0.05). During the first week of admission for treatment, the maximum weight loss was 8 kg and the maximum weight gain was 7.3 kg. There was 60.2% of patients with diet intake interruption. The main and highest recorded reason was high gastric residual (33.9%), followed by procedurerelated effects (26.2%). The highest caloric intake attained was at 66.5% of the recommended daily allowance. Only 6.8% of patients can reached 25-30 kcal/kg/day on the first day of hospitalization, which increased to 17.2% patients on the 7th day of hospitalization. Patients’ nutritional status, dietary intake and feeding disruption must be attentively evaluated for timely intervention.