Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tình trạng vitamin a và kẽm huyết thanh ở học sinh trung học cơ sở trường dân tộc bán trú huyện Tủa Chùa, Điện Biên năm 2018

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tình trạng vitamin a và kẽm huyết thanh ở học sinh trung học cơ sở trường dân tộc bán trú huyện Tủa Chùa, Điện Biên năm 2018
Tác giả
Đỗ Thúy Lê, Nguyễn Song Tú, Hoàng Nguyễn Phương Linh, Nguyễn Thúy Anh
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
47-51
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu cắt ngang, tiến hành năm 2018 trên 290 học sinh (HS) trung học cơ sở (THCS) của 04 trường phổ thông dân tộc bán trú huyện Tủa Chùa tỉnh Điện Biên, nhằm mô tả thực trạng thiếu vitamin A và thiếu kẽm huyết thanh. Kết quả cho thấy, tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng (VAD-TLS) là 9,7%; tỷ lệ nguy cơ VAD-TLS là 37,2%; nồng độ retinol trung bình (TB) là 1,11±0,3 mol/L. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (YNTK) về tỷ lệ nguy cơ VAD-TLS, nồng độ retinol TB giữa các nhóm tuổi (p<0,001). Tỷ lệ thiếu kẽm là 73,4%; nồng độ kẽm huyết thanh TB là 9,21±1,65 mol/L. Có sự khác biệt có YNTK về tỷ lệ thiếu kẽm, nồng độ huyết thanh TB giữa các nhóm tuổi (p<0,05). Tỷ lệ nguy cơ và VAD-TLS cao hơn ở học sinh suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi, dân tộc H’mông, chưa dậy thì và học sinh nội trú. Học sinh nội trú có tỷ lệ thiếu kẽm cao hơn so với học sinh không nội trú. Do đó, để cải thiện tình trạng thiếu vitamin A, thiếu kẽm cần triển khai cải thiện tình trạng dinh dưỡng, nâng cao chất lượng bữa ăn của trẻ tại trường; lưu ý can thiệp theo tình trạng sinh lý của trẻ, đặc thù dân tộc, ưu tiên đối với học sinh dân tộc H’mông.

Abstract

A cross-sectional study was conducted in 2018 on 290 secondary school students from 04 ethnic minority boarding schools in Tua Chua district, Dien Bien province to describe the current situation of vitamin A and zinc deficiency. The results showed that the prevalence of sub-clinical vitamin A deficiency (Sub- VAD) was 9.7%; the prevalence of Sub-VAD risk was 37.2%. The mean of retinol concentration was 1.11±0.3 mol/L. There was a statistically significant difference between the percentage of Sub-VAD risk and the mean of retinol concentration compared with age groups (p<0.001). The percentage of zinc deficiency was 73.4%; mean of serum zinc concentration was 9.21±1.65 mol/L. The prevalence of Sub-VAD and Sub-VAD risk was higher in stunted students, H'mong ethnic, prepubertal, and boarding students. Boarding students have a higher prevalence of zinc deficiency than non-boarding students. Therefore, in order to improve vitamin A and zinc deficiency, it is necessary to improve nutritional status and the quality of meals at school; and to give attention to intervention according to the physiological status of the student, ethnic specificity, priority for students of the H'mong ethnic group