Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tuân thủ điều trị ARV trên bệnh nhân HIV có điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenophine/naloxone ở Hà Nội

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tuân thủ điều trị ARV trên bệnh nhân HIV có điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenophine/naloxone ở Hà Nội
Tác giả
Đinh Thị Thanh Thúy; Vũ Minh Anh; Trần Hữu Bình; Todd Korthuis; Phạm Phương Mai; Lê Minh Giang
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
54-58
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV và một số yếu tố liên quan trên nhóm bệnh nhân điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) và điều trị ARV. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng tại 4 cơ sở điều trị HIV ngoại trú tại Hà Nội từ năm 2016 đến 2019. Tuyển chọn được 136 đối tượng tham gia và theo dõi trong vòng 12 tháng. Tuân thủ điều trị ARV được đo lường bằng thang đoVAS. Phân tích hỗn hợp (mixed-effect model) để xác định các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị ARV. Kết quả: 96,3% người tham gia là nam giới với độ tuổi trung bình là 38±5,8 tuổi, 43% có việc làm, 53,7% có thời gian sử dụng ma túy trên 10 năm và CD4 trung bình là 411±216TB/mm3.Tự ước tính từ 90% trở lên uống thuốc ARV đúng giờ trong vòng 7 ngày qua qua là 80,6% tại thời điểm ban đầu, 87% tại thời điểm 6 tháng và 79,4% tại thời điểm 12 tháng. Các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị cho thấy dương tính với morphine (OR=0.24; 95% KTC: 0.06-0.90), tải lượng vi rút HIV ≥ 200 bản sao/mL (OR=0.07; 95% KTC: 0.02-0.28) vàtình trạng điều trị ARV sau khi tham gia nghiên cứu (OR=0,28; 95%KTC: 0,08 – 0,96)thì tuân thủ điều trị ARV kém hơn. Kết luận: Tỷ lệ đạt ngưỡng tuân thủ điều trị ARV tương đối tốt sau 12 tháng theo dõi trong nhóm bệnh nhân nhận điều trị lồng ghép ARV và điều trị nghiện CDTP bằng buprenorphine.

Abstract

This article aims to describe the ARV adherence rate and associated factors in this population. Methods:Conducting quasi-experimental design (no controlled group) at 4 outpatient HIV clinics in Hanoi between 2016 and 2019, 136 participants and followed up within 12 months. ARV adherence was measured by VAS (visual analogue scale). Mixed-effect model was applied to identify factors associated with ARV adherence. Results: 96.3% of participants were male with mean age 38,8±5,8 years, 43% were employed,53,7% used heroin over 10 years and mean CD4 count was 411±216 TB/mm3 . Self-reported timely ARV pills taking from 90% or more in the last 7 days is 80.6% at baseline, 87% at 6 months and 79.4% at 12 months. Findings from the mixed-effect model analysis showed that having positive with morphine in the urine test (OR=0.24; 95% KTC: 0.06-0.90) and HIV viral load ≥ 200 copies/mL(OR=0.07; 95% KTC: 0.02- 0.28) and receiving ARV treatment after participating in the study (OR=0,28; 95%KTC: 0,08 – 0,96) lead to poor adherence to ARV medication. Conclusion: The percentage of optimal ARV adherence after 12 month follow is relative good among patients receiving both ARV and buprenorphine treatment