
Xác định tỷ lệ mổ lấy thai và sanh đường âm đạo ở thai phụ có vết mổ lấy thai cũ tại Bệnh viện Sản Nhi Hậu Giang. Khảo sát một số yếu tố liên quan đến chỉ định mổ lấy thai và sanh đường âm đạo ở đối tượng trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 100 thai phụ có vết mổ lấy thai cũ điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Hậu Giang. Kết quả: Mổ lấy thai là phương pháp được thực hiện nhiều nhất với tỷ lệ 96%, bao gồm mổ chủ động 52% và mổ cấp cứu 44%. Có nhiều yếu tố liên quan đến chỉ định phương pháp sanh gồm: tiền sử sanh đường âm đạo trước đó (p=0,002; 95% KTC), độ mở cổ tử cung lúc bắt đầu chuyển dạ (p < 0,001, 95% Cl), tình trạng ối lúc bắt đầu chuyển dạ (p<0,001, 95% Cl), đau vết mổ cũ (p=0,003;95% Cl). Thời gian nằm viện trung bình của thai phụ có vết mổ lấy thai cũ là (6,16 ± 0,8 ngày). Sinh đường âm đạo có thời gian ngắn nhất (5 ± 1,4 ngày), tiếp theo đến nhóm mổ cấp cứu (6,05 ± 0,75 ngày) và nhóm mổ chủ động (6,34 ± 0,71 ngày). Việc lựa chọn phương pháp sanh có liên quan đến số ngày nằm viện (p=002, KTC 95%). Kết luận: Đa phần phương pháp mổ lấy thai sau khi có vết mổ cũ được lựa chọn hơn thử thách sanh ngã âm đạo. Có nhiều yếu tố liên quan đến chỉ định phương pháp sanh bao gồm: tiền sử sanh đường âm đạo trước đó, đau vết mổ cũ, tình trạng ối, độ mở cổ tử cung khi bắt đầu chuyển dạ. Phương pháp sanh liên quan đến số ngày nằm viện. Nhóm sanh đường âm đạo có thời gian nằm viện ngắn hơn đồng thời chi phí điều trị thấp hơn so với nhóm mổ lấy thai.
Determine the rate of cesarean section and vaginal birth in pregnant women with old cesarean section at Hau Giang Obstetrics and Pediatrics Hospital. Survey some factors related to indications for cesarean section and vaginal birth in the above subjects. Research subjects and methods: cross-sectional descriptive study on 100 pregnant women with old cesarean section treated at Hau Giang Provincial Obstetrics and Pediatrics Hospital. Results: Caesarean section is the most commonly performed method with a rate of 96%, including elective surgery 52% and emergency surgery 44%. There are many factors related to the indication of birth method, including: history of previous vaginal birth (p = 0.002; 95% CI), cervical dilatation at the beginning of labor (p < 0.001, 95% CI), amniotic state at the beginning of labor (p < 0.001, 95% CI), old surgical wound pain (p = 0.003; 95% CI). The average hospital stay of pregnant women with old cesarean section is (6,16 ± 0,8 days). Vaginal birth had the shortest time (5 ± 1,4 days), followed by the emergency surgery group (6,05 ± 0,75 days) and the proactive surgery group (6,34 ± 0,71 days). The choice of birth method is related to the number of days in hospital (p=002, 95% CI). Conclusion: In most cases, cesarean section after an old incision is chosen over vaginal birth. There are many factors related to the method of birth, including: history of previous vaginal birth, previous surgical wound pain, amniotic fluid status, and cervical dilatation at the beginning of labor. The method of birth is related to the number of days in the hospital. The vaginal delivery group had a shorter hospital stay and lower treatment costs than the cesarean section group.
- Đăng nhập để gửi ý kiến