
Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng (CHT) và đánh giá vai trò của CHT trong chẩn đoán phân độ giai đoạn T của ung thư bàng quang (UTBQ). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu trên 40 bệnh nhân UTBQ được chụp CHT vùng chậu, được phẫu thuật và chẩn đoán xác định bằng kết quả giải phẫu bệnh (GPB) qua bệnh phẩm sinh thiết qua nội soi hoặc bệnh phẩm sau phẫu thuật tại bệnh viện Bình Dân từ 01/06/2019 đến 31/10/2022. Tất cả phim CHT được đánh giá trước phẫu thuật và so sánh với kết quả mô bệnh học. Kết quả: Nghiên cứu gồm 40 trường hợp UTBQ. Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 61,25 ± 15,34 (tuổi). Tỉ lệ nam giới chiếm ưu thế (67%). Kết quả mô bệnh học cho thấy ung thư tế bào chuyển tiếp chiếm đa số với 37 trường hợp (chiếm 92,5%), ung thư tế bào gai chiếm 7,5%. U chủ yếu gặp ở thành bên (42%), đa số có 1 u (70%). Kích thước u trung bình là 18,18 ± 17,18 (mm). Đa số ung thư bàng quang có hình dạng polyp với 17 trường hợp (42,5%), trong đó phần lớn là polyp có cuống (70%). Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa hình dạng u, kích thước u và mức độ xâm lấn cơ bàng quang (p<0,001). Đa số u dạng polyp là u chưa xâm lấn cơ bàng quang, chiếm 13/17 = 76,5%. Trên chuỗi xung T2W, đa số các u có tín hiệu trung gian (92,5%), tín hiệu thấp chiếm 7,5%. Giá trị của các chuỗi xung trong việc phân biệt giai đoạn ≤T1 và ≥T2 khi sử dụng đơn độc chuỗi xung T2W có độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác lần lượt là 78,3%; 41,2%, 62,5%; khi kết hợp T2W và DCE thì các tỉ lệ này là 95,7%; 58,8%; 80%; khi kết hợp 2 chuỗi xung T2W và DWI thì các tỉ lệ này lần lượt là 91,3%; 82,4%; 87,5%; khi kết hợp 3 chuỗi xung T2W với DCE và DWI thì tỉ lệ này là 95,7%; 88,2%; 92,5%. Diện tích dưới đường cong (AUC) cho thang điểm VIRADS trong phân biệt ung thư bàng quang có hay không tình trạng xâm lấn cơ là 0,948, với ngưỡng cut – off 3 cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất trong chẩn đoán lần lượt là 96,7% và 82,4%.
Describing imaging characteristics and assessing values of MRI in the diagnosis of bladder cancer at T-stage. Subjects and Methods: 40 patients with bladder cancer, undergo pelvic MRI, diagnosed, operated, and had pathology results from 01/06/2019 to 31/10/2022 at Binh Dan hospital. All MRI films were evaluated preoperatively and compared with histopathology postoperatively. Results: Among 40 patients being studied, the mean age was 61,25 ± 15,34; male predominance (67%). Histopathological results showed that transitional cell cancer accounted for the majority with 37 cases (92,5%), squamous cell cancer accounted for 7,5%. Out of 85 tumors, the most common tumor location was bilateral bladder 42%, mostly one tumor (70%). Featured images: mean size 18,18 ± 17,18; most frequently found polyp-shaped tumor 42,5%. There was a strong correlation between the shape and size of tumors and T staging (p<0.001). Most polypoid tumors were non-muscle invasive (76,5%). On T2 sequences, most tumors had intermediate signal (92,5%), low signal accounted for 7,5%. The value of sequences when in distinguishing tumors in T1 or lower and tumors in T2 or higher when using T2 sequences alone had the sensitivity, specificity and overall accuracy of 78,3%; 41,2%, 62,5%, accordingly. When combining T2 and DCE, these rates are 95,7%; 58,8%; 80%; when combining T2 and DWI these rates were 91,3%; 82,4%;87,5%. These rates were 95,7%; 88,2%; 92,5%, respectively, when combining 3 sequences T2, DCE and DWI. The area under the curve (AUC) for the VI-RADS scale in distinguishing muscle invasive of bladder was 0,948, with cut-off of 3 giving the highest sensitivity and specificity in diagnosis, 96,7% and 82,4% respectively.
- Đăng nhập để gửi ý kiến