
Đánh giá hiệu quả điều trị của thay huyết tương trên tỷ lệ sống ngắn hạn ở bệnh nhân suy gan cấp trên nền bệnh gan mạn tính. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, được thực hiện tại Khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 01/2019 đến tháng 7/2022. Các bệnh nhân thỏa các tiêu chí suy gan cấp trên nền bệnh gan mạn tính theo tiêu chuẩn APASL 2019 (Hội Nghiên cứu bệnh gan châu Á - Thái Bình Dương) được nhận vào nghiên cứu. Kết quả: 95 bệnh nhân suy gan cấp trên nền bệnh gan mạn tính được thu thập, trong đó, 72 bệnh nhân được điều trị nội khoa thông thường và 23 bệnh nhân được thay huyết tương. Các yếu tố như tuổi, giới, yếu tố thúc đẩy bệnh, mức độ bệnh não gan, albumin, AST, ALT, natri máu, lactate máu, creatinin và nồng độ amoniac không khác nhau giữa 2 nhóm. Qua theo dõi điều trị, các bệnh nhân được thay huyết tương có nồng độ INR, bilirubin toàn phần, các thang điểm MELD, MELD-Na, AARC thấp hơn nhóm điều trị nội khoa. Bệnh nhân được thay huyết tương có tỷ lệ sống 30 ngày cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không thay huyết tương (60,87% và 36,11%, p=0,036). Tuy nhiên, tỷ lệ sống 90 ngày không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (39,13% và 27,78%, p=0,303). Kết luận: Tỷ lệ sống 30 ngày ở nhóm thay huyết tương cao hơn có ý nghĩa so với nhóm được điều trị nội khoa đơn thuần, do đó thay huyết tương có thể được xem như là một phương pháp điều trị hữu hiệu ở bệnh nhân suy gan cấp trên nền mạn trong khi chờ đợi ghép gan
To evaluate the effectiveness of plasma exchange (PE) on short-term survival in patients with acute-on-chronic liver failure (ACLF). Subject and method: A study describing the series of cases from January 2019 to July 2022, patients admitted to the University Medical Center - Ho Chi Minh City who met diagnostic criteria for ACLF following the criteria of Asian Pacific Association for the Study of the Liver 2019 (APASL) were enrolled. Result: 95 patients (72 patients in the standard medical care (SMC) group and 23 patients in the PE group) met the inclusion criteria. Age, gender, precipitating factors of ACLF, the severity of hepatic encephalopathy, level of albumin, aspartate aminotransferase (AST), alanine aminotransferase (ALT), sodium, lactate, creatinine, and ammonia were not significantly different between the PE and SMC groups. Compared to patients in the SMC group, patients in the PE group had substantially lower levels of INR, total bilirubin, MELD score, MELD-Na score, and APASL-AARC research consortium (AARC) score. Patients in PE groups also significantly had a higher 30-day survival rate (60.87% vs 36.11%, p=0.036). However, there was no appreciable difference in the 90-day survival rate (39.13% vs. 27.78%, p=0.303). Conclusion: The 30-day survival rate in the PE group was significantly higher, indicating that PE may be an effective treatment in prolonging patient's survival while waiting for a liver transplant.
- Đăng nhập để gửi ý kiến