Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Vai trò tư vấn của điều dưỡng trong kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện huyện Lục Ngạn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Vai trò tư vấn của điều dưỡng trong kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện huyện Lục Ngạn
Tác giả
Cao Thị Thiện; Nguyễn Thị Bạch Yến
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
100
Trang bắt đầu
47-54
ISSN
1859-2848
Tóm tắt

Nghiên cứu can thiệp có đối chứng với thời gian theo dõi 03 tháng tại bệnh viện huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. 170 bệnh nhân THA đang được điều trị ngoại trú và huyết áp chưa được kiểm soát được (≥ 140/90 mmHg) được phân vào 2 nhóm, nhóm can thiệp tư vấn của điều dưỡng (85 bệnh nhân) và nhóm chăm sóc thường quy (85 bệnh nhân). BN nhóm can thiệp tái khám định kỳ theo thường quy và được điều dưỡng tư vấn 1 tháng một lần, nội dung bao gồm: đo HA, đánh giá thực hành thay đổi lối sống, ước tính tuân thủ thuốc và giáo dục cho bệnh nhân về bệnh tật, cách điều trị và thay đổi lối sống thông qua phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi KAP (đánh giá hiểu biết và thực hành lối sống), thang điểm Morisky 8 câu hỏi (để đánh giá tuân thủ điều trị), bộ tranh lật (để tư vấn sâu cho bệnh nhân nhóm can thiệp). Bệnh nhân nhóm chứng được tái khám định kỳ như thường quy mà không có sự tư vấn của điều dưỡng. Kết cục chính là sự khác biệt về huyết áp giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng tại thời điểm theo dõi 03 tháng. Kết quả: Sau 03 tháng can thiệp, tỷ lệ đạt huyết áp mục tiêu ở nhóm can thiệp là 45.9%, cao hơn ở nhóm chứng (36.5%), tuy nhiên khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê, p > 0.05. Ở nhóm can thiệp, huyết áp tâm thu và tâm trương trung bình sau can thiệp lần lượt là 142,4 ± 16,9 mmHg và 78,9 ± 11,8 mmHg, thấp hơn so với huyết áp tâm thu và tâm trương trung bình trước khi can thiệp là 156,9 ± 9,5 mmHg và 82,6 ± 11,0 mmHg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ở nhóm can thiệp tỷ lệ tuân thủ điều trị tính theo thang điểm Morisky từ 70,6% trước can thiệp tăng lên 91,8% sau can thiệp, ở nhóm chứng tỷ lệ này tăng lên không đáng kể sau can thiệp (88,8% so với 81,2%), p > 0.05.

Abstract

A controlled intervention study with a follow-up period of 3 months at Luc Ngan district hospital, Bac Giang province. 170 hypertensive patients undergoing outpatient treatment and uncontrolled blood pressure (≥ 140/90 mmHg) were assigned to 2 groups, the nursing counseling intervention group (85 patients) and the routine care group. (85 patients). Patients in the intervention group had regular follow-up visits and were consulted by a nurse once a month, including: measuring BP, assessing lifestyle changes, estimating medication adherence, and educating patients. on diseases, treatment and lifestyle changes through face-to-face interviews with KAP questionnaires (assess knowledge and lifestyle practices), 8-question Morisky scale (to assess treatment adherence) , flip picture set (for in-depth consultation for patients in the intervention group). Patients in the control group were re-examined at regular intervals without nursing consultation. The primary outcome was the difference in blood pressure between the intervention and control groups at 3-month follow-up. Results: After 03 months of intervention, the rate of achieving target blood pressure in the intervention group was 45.9%, higher than in the control group (36.5%), but the difference was not statistically significant, p > 0.05. In the intervention group, the mean systolic and diastolic blood pressure after the intervention was 142.4 ± 16.9 mmHg and 78.9 ± 11.8 mmHg, respectively, lower than the mean systolic and diastolic blood pressures. The mean before intervention was 156.9 ± 9.5 mmHg and 82.6 ± 11.0 mmHg, the difference was statistically significant with p<0.05. In the intervention group, the rate of adherence according to the Morisky scale from 70.6% before the intervention increased to 91.8% after the intervention, in the control group this rate increased insignificantly after the intervention (88, 8% vs 81.2%), p > 0.05.