
Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng khớp cắn và ảnh hưởng của sai khớp cắn đến chất lượng cuộc sống của người Việt độ tuổi 18-25. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với sự tham gia của 160 sinh viên trường Đại học Quốc Gia Hà Nội từ tháng 5/2023-1/2024. Đối tượng nghiên cứu được khám và lấy mẫu hàm nghiên cứu, đánh giá theo chỉ số nhu cầu điều trị chỉnh nha IOTN. Sau đó, tiến hành khảo sát chất lượng cuộc sống của nhóm đối tượng này thông qua bộ câu hỏi OHIP-14 và WHOQOL-Bref. OHIP-14 bao gồm 14 câu, chia thành bảy lĩnh vực trong đó đánh giá giới hạn chức năng, đau thực thể, tâm lý không thoải mái, hạn chế thể chất, hạn chế tâm lý, hạn chế xã hội, tàn tật. WHOQOL-Bref thì gồm 26 câu, chia thành 4 lĩnh vực: Sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, quan hệ xã hội và môi trường. Hai bộ câu hỏi đánh giá theo thang Likert, mỗi câu từ 0–5. Từ đó đánh giá thực trạng sai khớp cắn và ảnh hưởng của nó đến chất lượng cuộc sống. Kết quả: Tổng có 160 sinh viên có 52 nam chiếm 32,5% và 108 nữ chiếm 67,5%. Sai khớp cắn hạng I chiếm tỉ lệ cao nhất. Hình dạng cung răng hình oval chiếm tỉ lệ cao nhất, thấp nhất là cung răng tam giác. Nhu cầu điều trị chỉnh nha mức 3 chiếm tỉ lệ cao nhất, thấp nhất ở mức 5.Với bộ câu hỏi OHIP-14, điểm trung bình chất lượng cuộc sống là 15.68 ±8.09. Trong 7 vấn đề nghiên cứu, tâm lý không thoải mái là phổ biến nhất, ít gặp nhất là hạn chế xã hội. Sai khớp cắn hạng III có chất lượng cuộc sống kém hơn các dạng sai khớp cắn khác. Sai khớp cắn cần/ rất cần điều trị nắn chỉnh răng có chất lượng cuộc sống kém hơn sai khớp cắn không cần điều trị. Với bộ câu hỏi WHOQOL-Bref, không có sự khác biệt giữa chất lượng cuộc sống giữa 2 nhóm không cần điều trị và nhóm cần điều trị. Vấn đề có điểm cao nhất ở lĩnh vực sức khỏe thể chất, vấn đề có điểm thấp nhất ở lĩnh vực quan hệ xã hội. Kết luận: Tỉ lệ sai khớp cắn của người Việt độ tuổi 18-25 tương đối cao, sai khớp cắn hạng III và cần điều trị nắn chỉnh có chất lượng cuộc sống liên quan đến răng miệng kém hơn các nhóm khác, nhưng chất lượng cuộc sống nói chung không bị ảnh hưởng.
This study aims to evaluate the current state of occlusion and the impact of malocclusion on the quality of life of Vietnamese people aged 18-25. Method: Cross-sectional descriptive study with the participation of 160 students from Hanoi National University from May 2023 to January 2024. Research subjects were examined and research dental casts were taken, evaluated according to the IOTN orthodontic treatment need index. Then, conduct a survey on the quality of life of this group of subjects through the OHIP-14 and WHOQOL-Bref questionnaires. The OHIP-14 includes 14 questions, divided into seven domains, which assess functional limitation, physical pain, psychological discomfort, physical disability, psychological disability, social disability, and handicap. WHOQOL-Bref includes 26 questions, divided into 4 domains: physical health, mental health, social relationship and environment. Two sets of questions rated on a Likert scale, each from 0–5. From there, evaluate the current status of malocclusion and its impact on quality of life. Result: There are a total of 160 students, 52 males accounting for 32.5% and 108 females accounting for 67.5%. Class I malocclusion accounts for the highest rate. The oval dental arch shape has the highest proportion, the lowest is the triangular dental arch. The need for orthodontic treatment at level 3 accounts for the highest percentage, the lowest at level 5. With the OHIP-14 questionnaire, the average quality of life score is 15.68 ± 8.09. Among the 7 research issues, psychology discomfort is the most common, least common is social disability. Class III malocclusion has a poorer quality of life than other types of malocclusion. In general, the group that severe/ extreme orthodontic treatment had a poorer quality of life than the group that no need to treatment, or mild needed orthodontic treatment. With the WHOQOL-Bref questionnaire, there is no difference between the quality of life between the two groups that do not need treatment and the group that needs treatment. The issue with the highest score was in the physical health domain, the issue with the lowest score in the social relationship domain. Conclusion: The rate of malocclusion among Vietnamese people aged 18-25 years old is relatively high, class III malocclusion and requiring orthodontic treatment have poorer oral-related quality of life than other groups, but overall quality of life is poor, general is not affected.
- Đăng nhập để gửi ý kiến