
Cập nhật các phương pháp tạo hình khuyết hổng lớn vùng hàm mặt , đánh giá kết quả tạo hình của các phương pháp này. Đối tượng phương pháp Hồi cứu, mô tả cắt ngang trên 106 bệnh nhân được điều trị tạo hình tức thì khuyết hổng lớn sau phẫu thuật cắt u vùng hàm mặt trong thời gian từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2023. Kết quả: Diện khuyết gặp nhiều nhất trong nghiên cứu là khuyết hổng XHD chiếm 50,94% tổng số trường hợp; khuyết hổng lưỡi – sàn miệng chiếm 24,52% và khuyết hổng bán phần xương hàm trên chiếm 19,81%; ngoài ra còn có những khuyết hổng lớn xuyên thấu vùng má chiếm 4,72%. 100% bệnh nhân không hạn chế há miệng sau phẫu thuật. Phương pháp sử dụng nhiều nhất là vạt xương mác tự do trên 65 bệnh nhân tạo hình XHD hoặc XHT chiếm 61,32%; tiếp đến là vạt cánh tay ngoài tự do trên 26 bệnh nhân tạo hình lưỡi – sàn miệng chiếm 24,52%; vạt tại chỗ kết hợp với phục hình tức thì XHT ứng dụng trên 11 bệnh nhân, chiếm 10,38% và 6 vạt đùi trước ngoài được sử dụng tạo hình khuyết hổng má và tạo hình che phủ lớn vùng hàm dưới chiếm 6,66%. Kết quả xa về chức năng sau 6 tháng không có BN nào phải ăn qua sonde và ăn dạng lỏng , có 8 BN (7,54%) ăn thức ăn dạng sệt và 98 BN(92,45%) có thể ăn uống bình thường. Kết quả theo dõi xa về thẩm mỹ khuôn mặt, không có bệnh nhân nào đạt kết quả thẩm mỹ kém; có 8,49% bệnh nhân đạt kết quả thẩm mỹ khá và 91,51% bệnh nhân đạt được kết quả thẩm mỹ tốt. Kết luận: Lựa chọn sử dụng các vạt tạo hình phù hợp nhất với khuyết hổng là điều quan trọng trong phục hồi chức năng.Việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật số dựng hình 3D kết hợp với sử dụng linh hoạt các phương pháp tạo hình có thể mang lại cho bệnh nhân kết quả tốt về chức năng cũng như tính thẩm mỹ của khuôn mặt sau phẫu thuật cắt các khối u lớn vùng hàm mặt.
To update the methods of reconstructing large defects in the maxillofacial region, to evaluate the results of these methods. Methods: Retrospective, cross-sectional description of 106 patients treated for immediate reconstruction of large defects after maxillofacial tumor resection surgery from January 2020 to December 2023. Results: The most common defect in the study was the mandibular defect, accounting for 50.94% of the total number of cases; the tongue-floor defect accounted for 24.52% and the partial maxillary defect accounted for 19.81%; in addition, there were large defects penetrating the cheek area, accounting for 4.72%. 100% of patients had no restriction in opening their mouth after surgery. The most commonly used method was the free fibula flap in 65 patients with maxillary or mandibular reconstruction, accounting for 61.32%; followed by the free lateral arm flap in 26 patients with tongue-floor reconstruction, accounting for 24.52%; Local flaps combined with immediate maxillary bone restoration were applied to 11 patients, accounting for 10.38%, and 6 anterior lateral thigh flaps were used to reconstruct cheek defects and create large coverage of the mandible, accounting for 6.66%.. Long-term functional results after 6 months, no patient had to eat through a tube and eat liquid food, 8 patients (7.54%) ate solid food and 98 patients (92.45%) could eat and drink normally. Long-term follow-up results on facial aesthetics, no patient had poor aesthetic results; 8.49% of patients had fair aesthetic results and 91.51% of patients had good aesthetic results. Conclusion: Choosing the most suitable flaps for the defect is important in rehabilitation. The application of 3D digital imaging technology combined with flexible use of imaging methods can bring patients good results in terms of function as well as facial aesthetics after surgery to remove large tumors in the maxillofacial region.
- Đăng nhập để gửi ý kiến