Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm tổn thương tại chỗ ở bệnh nhân bị rắn hổ cắn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm tổn thương tại chỗ ở bệnh nhân bị rắn hổ cắn
Tác giả
Nguyễn Văn Mạnh; Lê Quang Thuận; Đoàn Thu Hà; Hà Trần Hưng
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
95-99
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm tổn thương tại chỗ ở bệnh nhân bị rắn Hổ mang cắn. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả tiến cứu, thực hiện trên 104 BN bị rắn Hổ mang cắn điều trị tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai từ 07/2022 đến 10/2023. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 50,9±14,1, nam nhiều hơn nữ. Vị trí bị rắn cắn chủ yếu là ngón chi. Tại chỗ: đau 100%, móc độc 71,2%, phỏng nước 50%, hoại tử da 90,4% và hội chứng khoang 12,5%. POCUS: tụ dịch 36,5%, phù nề bao gân 83,7%, phù nề SCE 100% (gấp 2,5 lần bên lành), phù nề cơ 35,5% (gấp 1,07 lần bên lành), dị vật vết cắn 1%. Phù nề chi chủ yếu là phù nề SCE, sự đóng góp của phù nề cơ là rất nhỏ. Có tương quan thuận giữa lan xa SCE và lan xa (p < 0,001 và r = 0,973). SCE xuất hiện trước khi biểu hiện trên da. Chênh lệch giá trị 2 phép đo gợi ý tổn thương đang tiến triển. Kết luận: POCUS cung cấp các thông tin đầy đủ hơn về tổn thương tại chỗ ở bệnh nhân bị rắn Hổ mang cắn.

Abstract

To describe the clinical and ultrasound characteristics of local effects on patients envenomed by cobra snakes. Methods: the observational prospective study included 104 patients bitten by cobra snakes treated at the Poison Control Center of Bach Mai Hospital from July 2022 to October 2023. Results: mean age was 50,9±14,1 years old, mostly male patients. The common bites were at the digits. Local signs were pain (100%), swelling (100%), fang marks (71,2%), blisters (50%), skin necrosis (90,4%) and mild compartment syndrome (12,5%). POCUS revealed fluid-filled collection (36.5%), tendon sheath edema (83,7%), subcutaneous edema (100%) 2,5 times more than the normal limb, muscle edema (35,5%) 1,07 times more than the normal limb, extraneous body (1%). Limb edema was mainly SCE edema, and the contribution of muscle edema is minimal. There was a positive correlation between SCE and clinical distant spread (p < 0,001 and r = 0,973). SCE often appeared ealier than skin manifestations. The difference between the two measurements suggested the local damage progressing. Conclusion: POCUS provided more information of the local effects caused by cobra bites.