Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá kết quả của kỹ thuật can thiệp động mạch tạng qua đường động mạch quay tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá kết quả của kỹ thuật can thiệp động mạch tạng qua đường động mạch quay tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Tác giả
Nguyễn Thái Bình; Đặng Ngọc Tài
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
18-22
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả của kỹ thuật can thiệp động mạch tạng qua đường động mạch quay tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang từ tháng 1 năm 2024 đến tháng 4 năm 2024, 23 bệnh nhân có chỉ định can thiệp động mạch tạng phù hợp để tiếp cận qua đường động mạch quay, với 23 lần can thiệp, có đầy đủ thông tin nghiên cứu, loại trừ các trường hợp thiếu thông tin hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu: Trong nhóm nghiên cứ có 20 bệnh nhân nam, 3 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 63.2 +/- 11.5. Bệnh lý ung thư gan nguyên phát (HCC) chiếm chủ yếu (48%), sau đó là bệnh lý phì đại lành tính tiền liệt tuyến (26%), các bệnh lý của thận, u xơ tử cung và nhóm C bệnh lý khác. Vị trí chọc mạch ở cổ tay và hõm lào giải phẫu trái chiếm ưu thế. Tỉ lệ co thắt mạch là 13% (3 ca), không ghi nhận biến chứng nặng như tắc mạch hay lóc tách. 91% các ca can thiệp tiếp cận động mạch thành công ngay từ lần chọc mạch đầu tiên, 87% đạt được nút tắc hoàn toàn mạch mục tiêu, 74% lâm sàng cải thiện tốt sau can thiệp. Kết luận: Can thiệp mạch tạng qua đường động mạch quay mới được triển khai trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Đây là một kỹ thuật dễ thực hiện với độ an toàn cao, có thể thực hiện với các can thiệp nút mạch tạng trong ổ bụng, đặc biệt thuận lợi với các can thiệp nút mạch vùng tiểu khung. Vị trí tiếp cận động mạch quay tối ưu là ở hõm lào giải phẫu bên trái.

Abstract

To evaluate the results of the visceral artery intervention through the radial access at Hanoi Medical University Hospital. Method: Cross-sectional study, from 1/2024 to 4/2024, 23 patients with appropriate indications for visceral artery intervention for radial artery access, with 23 interventions, had complete study information, excluding cases with missing information or refusal to participate in the study. Research results: In the study group, there were 20 male patients, 3 female patients, the average age was 63.2 +/- 11.5 years. Primary liver cancer (HCC) was the main cause (48%), followed by benign prostatic hyperplasia (26%), kidney diseases, uterine fibroids and other diseases. The puncture site at the wrist and the anatomical snuffbox were dominant. The rate of vasospasm was 13% (3 cases), no serious complications such as thrombosis or vascular dissection were recorded. 91% of the arterial access interventions were successful from the first puncture, 87% achieved complete occlusion of the target vessel, 74% had good clinical improvement after the intervention. Conclusion: Transradial artery visceral vascular intervention has recently been implemented in the world as well as in Vietnam. This is an easy-to-perform technique with high safety, can be performed with intra-abdominal visceral vascular embolization interventions, especially convenient with pelvic vascular embolization interventions. The optimal radial artery access location is in the left anatomical snuffbox.