
Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh lồng ruột ở trẻ em; Đánh giá kết quả điều trị bằng phương pháp bơm hơi tháo lồng ở trẻ em. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu tất cả bệnh nhi nhập viện tại khoa Ngoại Nhi được chẩn đoán là lồng ruột và có chỉ định tháo lồng bằng hơi. Kết quả: Giới tính: nam 57%, nữ 43%. Nhóm tuổi: trẻ < 12 tháng là 23,3%, từ 12-24 tháng chiếm 25,5% và trẻ ở nhóm tuổi > 24 tháng chiếm tỷ lệ 51,2%. Dinh dưỡng: cân nặng bình thường chiếm 91,9%; thừa cân là 7% và có 1 trường hợp trẻ suy dinh dưỡng chiếm 1,2%. Tiền sử mắc bệnh lồng ruột: có 23,3% trẻ bị lồng ruột tái phát, chưa mắc: mắc bệnh lồng ruột lần đầu chiếm 76,7%. Thời điểm nhập viện: đến sớm < 48 giờ chiếm 89,5%, muộn > 48 giờ: 10,5%. Dấu hiệu lâm sàng khi nhập viện của trẻ: hầu hết các trẻ đều có dầu hiệu đau bụng, quấy khóc chiếm 97,7%, nôn ói chiếm 66,3%, có 17% trẻ đi tiêu phân đàm máu. Khám thực thể ghi nhận: đa số trẻ không có dấu hiệu mất nước chiếm 97,7%, chỉ có 2,3% trẻ có dấu hiệu mất nước; có 12,8% trẻ bị chướng bụng và khi thăm khám sờ được khối lồng chiếm 95,3%. Tình trạng toàn thân của trẻ lúc nhập viện: trẻ lừ đừ chiếm 26,7%, sốt có 17%, bỏ bú 31,4%. Đa số các trường hợp trẻ còn khỏe chưa có biểu hiện nặng. Kết quả siêu âm ghi nhận 98,8% phát hiện hình ảnh khối lồng qua siêu âm, các trường hợp nghiên cứu không có thực hiện chỉ định chụp Xquang bụng để hổ trợ trong chẩn đoán. Đa số các trường hợp đều nhập viện trước 48 giờ chiếm 89,5%, có 10,5% nhập viện muộn sau 48 giờ. Đa số các trường hợp đều được tháo lồng bằng hơi thành công trong lần đầu chiếm 82,5%, có 15,1% phải tháo từ 2 lần trở lên, 1 trường hợp không tháo được, người nhà bệnh nhi xin chuyển tuyến trên, 1 trường hợp không tháo được phải chuyển mổ cấp cứu. Kết luận: Các dấu hiệu lâm sàng: có đầy đủ các dấu hiệu lâm sàng, đặc biệt là đau bụng, quấy khóc chiếm 97,7%. Dấu hiệu thực thể: sờ được khối lồng khi thăm khám chiếm 95,3%. Dấu hiệu toàn thân: chưa điển hình do bệnh nhi đến sớm, chỉ có dấu hiệu trẻ bỏ bú chiếm 31,4%. Cận lâm sàng: Siêu âm bụng phát hiện khối lồng chiếm 98,8%. Kết quả tháo lồng bằng hơi: thành công trong 1 lần tháo chiếm 82,5%; tháo 2 lần trở lên:15,1%; tháo không thành công: 2,4%. Phương pháp tháo lồng bằng hơi dưới siêu âm điều trị lồng ruột ở trẻ em là một phương pháp an toàn, hiệu quả và dễ thực hiện. An toàn: không có tử vong, không tai biến, ít biến chứng. Hiệu quả: tỷ lệ thành công cao 97,6%. Dễ thực hiện: bơm hơi bằng máy tạo hơi, có thể áp dụng ở mọi cơ sở có trang bị siêu âm, Xquang và có khả năng phẫu thuật cấp cứu bụng để xử trí các tình huống tháo lồng thất bại hoặc có biến chứng vỡ ruột.
Survey of clinical and paraclinical characteristics of intussusception in children; Evaluate the results of treatment by pneumatic debulking in children. Method: Prospective study of all children hospitalized in the Department of Pediatric Surgery diagnosed with intussusception and indicated for pneumatic debulking. Results: Gender: male 57%, female 43%. Age group: children < 12 months old accounted for 23.3%, from 12-24 months accounted for 25.5% and children in the age group >24 months accounted for 51.2%. Nutrition: normal weight accounted for 91.9%; overweight was 7% and there was 1 case of malnutrition accounted for 1.2%. History of intussusception: 23.3% of children had recurrent intussusception, not yet: first-time intussusception accounted for 76.7%. Time of admission: early < 48 hours accounted for 89.5%, late > 48 hours: 10.5%. Clinical signs of children when admitted: most children had signs of abdominal pain, crying accounted for 97.7%, vomiting accounted for 66.3%, 17% of children had bloody stools. Physical examination showed: most children had no signs of dehydration accounted for 97.7%, only 2.3% of children had signs of dehydration; 12.8% of children had abdominal distension and when examined, a palpable mass accounted for 95.3%. General condition of children when admitted: lethargic accounted for 26.7%, fever 17%, refusal to breastfeed 31.4%. Most cases of children were still healthy and had no serious symptoms. Ultrasound results showed that 98.8% of children had detected images of the mass through ultrasound, the study cases did not have an indication for abdominal X-ray to support diagnosis. Most cases were admitted to the hospital before 48 hours, accounting for 89.5%, and 10.5% were admitted late after 48 hours. Most cases were successfully removed by air on the first attempt, accounting for 82.5%, 15.1% had to be removed 2 or more times, 1 case could not be removed, the patient's family requested to be transferred to a higher level, 1 case could not be removed and had to be transferred to an emergency surgery. Conclusion: Clinical signs: full clinical signs, especially abdominal pain and crying, accounting for 97.7%. Physical signs: palpable intussusception mass during examination, accounting for 95.3%. General signs: not typical because the patient arrived early, only signs of the child refusing to breastfeed, accounting for 31.4%. Paraclinical: abdominal ultrasound detected intussusception mass, accounting for 98.8%. Results of removing intussusception by air: successful in 1 removal, accounting for 82.5%; removal 2 or more times: 15.1%; Unsuccessful removal: 2.4%. The method of pneumatic debulking under ultrasound for treating intussusception in children is a safe, effective and easy method. Safety: no deaths, no accidents, few complications. Effectiveness: high success rate of 97.6%. Easy to perform: inflating with a pneumatic generator, can be applied in any facility equipped with ultrasound, X-ray and capable of emergency abdominal surgery to handle situations of failed debulking or complications of intestinal rupture.
- Đăng nhập để gửi ý kiến