Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan thất bại sau Tace bằng Sorafenib

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan thất bại sau Tace bằng Sorafenib
Tác giả
Phạm Thanh Phương; Trần Thắng; Vũ Hồng Thăng; Hoàng Ngọc Tấn; Hoàng Thị Cúc
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD2
Trang bắt đầu
183-191
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan thất bại sau TACE bằng Sorafenib. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng bao gồm 56 người bệnh được xác định thất bại sau TACE và chuyển sang điều trị toàn thân bằng Sorafenib tại bệnh viện K từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 5 năm 2023. Người bệnh được ghi nhận các triệu chứng lâm sàng, các xét nghiệm cận lâm sàng, đánh giá hiệu quả của thuốc Sorafenib và ghi nhận các tai biến và biến chứng nếu có. Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình 59,1 ± 10,8 tuổi, có 83,9% người mắc viêm gan B và 8,9% mắc viêm gan C. Chức năng gan Child-Pugh A chiếm tỉ lệ 87,5%; Child-Pugh B chiếm tỉ lệ 12,5%. BN có 1 khối u chiếm tỉ lệ 7,1%; BN có 2 khối u chiếm 16,1%; BN có 3 khối u chiếm 76,8%. Giai đoạn BCLC-B chiếm tỉ lệ 33,9%, BCLC-C là 66,1%. Nồng độ AFP trung bình trước điều trị 5682,5 ± 32547 (ng/ml). PFS và OS trung vị lần lượt là 13,5 và 18,2 tháng. Có sự khác biệt có ý nghĩa về PFS và OS giữa các nhóm theo phân loại giai đoạn Barcelona (BCLC) và theo phân loại AFP; PFS ở giai đoạn BCLC-B, BLCL-C lần lượt là 16,1 tháng và 12,1 tháng với p=0,03, OS trung vị lần lượt là 23,1 tháng và 15,5 tháng với p = 0,002. PFS ở nhóm người bệnh có nồng độ AFP < 400ng/mL và  400ng/mL là 15,2 tháng và 11,7 tháng với p=0,015, và OS là 20,6 tháng, 15,7 tháng với p=0,039. Kết luận: Việc chuyển đổi sang Sorafenib cải thiện đáng kể thời gian sống thêm ở những người bệnh HCC thất bại với điều trị TACE.

Abstract

We conducted a study to evaluate the results of treatment of hepatocellular carcinoma that failed after TACE with Sorafenib at K hospital. Material/Methods: 56 patients were defined as TACE-refractory and switched from TACE to Sorafenib at K hospital from July 2019 to May 2023. Patients' clinical symptoms, paraclinical tests, Sorafenib’s effectiveness, and any side effects were observed. Results: The average age was 59,1±10,8 years old, there were 83,9% of people with hepatitis B and 8,9% of people with hepatitis C. Liver function Child Pugh A used at the rate of 87,5%; Child Pugh B accounts for 12.5%. Patients with 1 tumor accounted for 7,1%; Patients with 2 tumors accounted for 16,1%; Patients with 3 tumors accounted for 76,8%. Stage BCLC-B accounts for 33,9%, BCLC-C is 66,1%. Mean AFP concentration before treatment 5682,5±32547 (ng/ml). Median PFS and OS were 13,5 and 18,2 months, respectively. There were significant differences in PFS and OS between groups according to Barcelona stage classification (BCLC) and by AFP classification; PFS at BCLC-B, BLCL-C stages were 16,1 months and 12,1 months, respectively with p=0,03, median OS was 23,1 months and 15,5 months with p=0,002, respectively. PFS in patients with AFP levels < 400ng/mL and 400 ng/mL was 15,2 months and 11,7 months with p=0,015 and OS was 20,6 months, 15,7 months with p=0,039. Conclusion: Treatment with orafenib improves the survival in HCC patients refractory to TACE therapy.