Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá mô hình điều trị thực tế và kết quả lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn III: Góc nhìn từ nghiên cứu Kindle - Việt Nam

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá mô hình điều trị thực tế và kết quả lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn III: Góc nhìn từ nghiên cứu Kindle - Việt Nam
Tác giả
Diệp Bảo Tuấn; Nguyễn Tuấn Khôi; Nguyễn Thùy Trang; Võ Thị Ngọc Trâm
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
163-174
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Dữ liệu hồi cứu từ những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn III (AJCC, ấn bản lần thứ 7) từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12 năm 2017 với ít nhất 9 tháng theo dõi được thu thập từ 2 trung tâm ở Việt Nam (BV Ung Bướu TP. HCM và BV K). Thống kê mô tả được sử dụng để tóm tắt nhân khẩu học, đặc điểm bệnh tật và phương thức điều trị. Phương pháp Kaplan-Meier đánh giá ước tính sống sót; Khoảng tin cậy 95% (KTC) 2 mặt được tính toán. Thống kê suy luận được sử dụng để đánh giá tương quan giữa các biến số lâm sàng và điều trị với trung vị thời gian sống còn không bệnh tiến triển (mPFS) và trung vị thời gian sống còn toàn bộ (mOS). Kết quả: Tổng số 150 bệnh nhân (tuổi trung bình: 60 tuổi [thay đổi từ 26 - 82]) đã được tuyển tham gia nghiên cứu; 75,3% là nam, 62,0% có tiền sử hút thuốc, 56,4% mắc bệnh giai đoạn IIIB và 62,5% bị ung thư biểu mô tuyến. Phần lớn các trường hợp (97,3%) không được hội chẩn đa chuyên khoa. Nhìn chung, hóa trị đơn thuần (43,3%), xạ trị đơn thuần (17,0%), hóa xạ trị tuần tự (13,5%) và hóa xạ trị đồng thời (12,8%) được ưu tiên dùng làm liệu pháp ban đầu. Điều trị dựa trên phẫu thuật được thực hiện ở một số ít bệnh nhân (giai đoạn IIIA: 10%; giai đoạn IIIB: 1,3%). Liệu pháp giảm nhẹ là phương pháp điều trị được sử dụng phổ biến nhất khi tái phát lần thứ hai và thứ ba. mPFS và mOS cho nhóm thuần tập Việt Nam lần lượt là 8,7 tháng (95% CI, 7,59-9,72) và 25,7 tháng (95% CI, 19,98 - 42,61). mPFS và mOS cho giai đoạn IIIA là 11,9 tháng (95% CI, 8,64 - 14,95) và 28,2 tháng (95% CI, 24,15 - không tính được) và cho giai đoạn IIIB là 7,8 tháng (95% CI, 6,64 - 8,71) và 20,0 tháng (KTC 95%, 13,01 - 42,61). Kết luận: Nghiên cứu KINDLE - Việt Nam cung cấp thông tin chi tiết về các phát hiện lâm sàng của NSCLC giai đoạn III. Các chiến lược để cải thiện kết quả lâm sàng ở nhóm bệnh nhân này bao gồm giáo dục bác sĩ, tổ chức hội chẩn đa chuyên khoa và tăng khả năng tiếp cận với các phương pháp điều trị mới như liệu pháp miễn dịch và liệu pháp nhắm đích.

Abstract

Retrospective data from patients diagnosed with stage III NSCLC (American Joint Committee on Cancer, 7th edition) between January 2013 and December 2017 with at least 9 months of follow-up were collected from 2 centres in Vietnam. Descriptive statistics were used to summarise demographics, disease characteristics and treatment modalities. Kaplan-Meier methodology evaluated survival estimates; 2-sided 95% confidence intervals (CIs) were computed. Inferential statistics were used to correlate clinical and treatment variables with median progression-free survival (mPFS) and median overall survival (mOS). Results: A total of 150 patients (median age: 60 years [range 26 - 82]) were enrolled; 75.3% were male, 62.0% had smoking history, 56.4% had stage IIIB disease and 62.5% had adenocarcinoma. The majority of the cases (97.3%) were not discussed at a multidisciplinary team meeting. Overall, chemotherapy alone (43.3%), radiotherapy alone (17.0%), sequential chemoradiation (13.5%) and concurrent chemoradiation (12.8%) were preferred as initial therapy. Surgery-based treatment was administered in limited patients (stage IIIA, 10%; stage IIIB, 1.3%). Palliative therapy was the most commonly administered treatment upon relapse in the second - and third - line setting. The mPFS and mOS for the Vietnam cohort were 8.7 months (95% CI, 7.59 - 9.72) and 25.7 months (95% CI, 19.98 - 42.61), respectively. The mPFS and mOS for stage IIIA were 11.9 months (95% CI, 8.64 - 14.95) and 28.2 months (95% CI, 24.15 - not-calculable) and for stage IIIB were 7.8 months (95% CI, 6.64 - 8.71) and 20.0 months (95% CI, 13.01 - 42.61). Conclusions: KINDLE-Vietnam offers insights into the clinical findings of stage III NSCLC. There is a high unmet need for identifying patients in the early stages of NSCLC. Strategies for improving clinical outcomes in this patient population include physician education, multidisciplinary management and catering to increased access to novel agents like immunotherapy and targeted therapy.