Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá tình hình nhiễm khuẩn đường tiết niệu sau cắt đốt nội soi bướu bàng quang qua ngả niệu đạo không sử dụng kháng sinh dự phòng

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá tình hình nhiễm khuẩn đường tiết niệu sau cắt đốt nội soi bướu bàng quang qua ngả niệu đạo không sử dụng kháng sinh dự phòng
Tác giả
Trần Trọng Huân; Phạm Hữu Tùng; Nguyễn Tuấn Vinh
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
128-135
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định tỉ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu sau cắt đốt nội soi bướu bàng quang qua ngả niệu đạo không sử dụng kháng sinh dự phòng. Phương pháp và đối tượng: Mô tả tiến cứu 34 BN bướu bàng quang, được chỉ định cắt đốt nội soi bướu bàng quang qua ngả niệu đạo, không có nhiễm khuẩn đường tiết niệu và không sử dụng kháng sinh dự phòng. Tất cả những BN được ghi nhận đặc điểm bướu bàng quang trong lúc phẫu thuật và tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu sau phẫu thuật. Kết quả: Tất cả BN đều có kết quả cấy nước tiểu trước mổ không mọc vi khuẩn, bạch cầu trong nước tiểu âm tính trong 100% TH, phản ứng nitrit âm tính 100%. Tất cả TH đều có dưới 3 bướu bàng quang, kích thước bướu lớn nhất dưới 3 cm, và tất cả bướu không có mô hoại tử. Thời gian phẫu thuật trung bình là 16,29 phút. Kết quả tổng phân tích nước tiểu sau mổ ghi nhận 94,12% TH có bạch cầu trong nước tiểu, không có TH nào có phản ứng nitrit trong nước tiểu dương tính. Kết quả cấy nước tiểu sau mổ 48 giờ có 1 TH cấy ra VK, không có TH nào có biểu hiện nhiễm khuẩn trên lâm sàng, và tất cả BN đều không sử dụng kháng sinh điều trị. Kết luận: Đối với các trường hợp không có các yếu tố nguy cơ, biến chứng nhiễm khuẩn niệu sau phẫu thuật CĐNSBBQ qua ngả niệu đạo không sử dụng kháng sinh dự phòng là rất thấp. Qua đó là căn cứ để tiết kiệm nguồn lực kháng sinh và hạn chế sự đề kháng của vi khuẩn