
Động mạch thận có nguyên ủy từ động mạch chủ bụng và thường chia 2 nhánh trước và sau bể thận để cấp máu cho các vùng của thận, niệu quản. Đây là động mạch tận và không có các vòng nối với nhau, ngoài chức năng cấp máu nó còn đóng vai trò quan trọng trong các chức năng sinh lý khác như điều hoà huyết áp. Tổn thương chảy máu từ động mạch thận gặp trong nhiều trường hợp như chấn thương thận, dị dạng mạch thận, sau các can thiệp ngoại khoa như sau mổ mở, tán sỏi thận qua da. Sự phát triển của chẩn đoán hình ảnh cho ra đời phương pháp chụp động mạch thận số hoá xoá nền, đánh giá được giải phẫu động mạch thận một cách trực quan, chi tiết. Một ứng dụng của giải phẫu động mạch thận trên phim chụp mạch trong thực tế lâm sàng là can thiệp nút mạch thận chọn lọc cầm máu điều trị biến chứng chảy máu sau tán sỏi thận qua da. Do các nhánh chia của hệ thống động mạch thận trong nhu mô thận không có vòng tiếp nối với nhau nên khi nút tắc nhánh mạch nào thì phần nhu mô thận đó sẽ thiếu máu nuôi. Để bảo tồn tối đa nhu mô thận lành, việc tiếp cận và lựa chọn nút tắc mạch tổn thương càng cần phải chọn lọc. Trong giai đoạn từ 01/2019 đến 05/2023, bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã thực hiện 32 ca nút mạch thận cầm máu điều trị biến chứng chảy máu sau tán sỏi thận qua da. Kết quả cho thấy tổn thương thường gặp nhất là những ổ giả phình mạch với tỉ lệ 62,5%. Keo sinh học là loại vật liệu nút mạch thường được sử dụng nhất (75%). Thời gian nằm viện trung bình là 5,8 ngày. Có 96,9% trường hợp nút mạch thành công sau 1 lần can thiệp, chỉ có 1 trường hợp (3,1%) cần can thiệp lần 2 và đã thành công sau lần can thiệp thứ 2, cho thấy sự hiệu quả của phương pháp này.
The renal artery is an important artery of the body, usually originating from the abdominal aorta and branching to supply blood to the kidneys and ureters and plays an important role in physiological functions such as filtering blood and regulating blood pressure. Renal artery hemorrhagic lesions are relatively common, one of the most common renal artery hemorrhagic lesions is the bleeding lesion post-percutaneous nephrolithotomy. The development of radiology has given rise to the digital subtraction angiography (DSA) method, which can asses renal artery anatomy in a visual and detailed manner. One application of renal artery anatomy on DSA in clinical practice is superselective renal artery embolization post-percutaneous nephrolithitomy. Because the branches of the renal artery system in the kidney parenchyma do not have connections with each other, when any branch is blocked, that part of the kidney parenchyma will lack of blood supplication. During the period from January 2019 to May 2023, Hanoi Medical University hospital has performed 32 cases of superselective renal artery embolization post-percutaneous nephrolithotomy. The results show that the most common lesions are pseudoaneurysms with a rate of 62,5%. Bioglue is the most commonly used material (75%). The average hospital stay is 5,8 days. There are 96,9% of embolization cases successful after 1 intervention. There is only 1 case that needs a second intervention and was successful after that, showing the effectiveness of this method.
- Đăng nhập để gửi ý kiến