Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả trung hạn tạo thông nối động tĩnh mạch để chạy thận nhân tạo trên bệnh nhân suy thận mạn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả trung hạn tạo thông nối động tĩnh mạch để chạy thận nhân tạo trên bệnh nhân suy thận mạn
Tác giả
Lê Đức Tín; Văn Thị Hiếu; Trần Thị Thuỳ Vy
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
134-138
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Tại Việt Nam, ước tính có khoảng 8 triệu người mắc bệnh suy thận mạn, trong đó giai đoạn từ III đến V chiếm 3,1 – 3,6% 3. Ngày nay, chạy thận nhân tạo là phương pháp phổ biến trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Đây là phương pháp lọc máu bằng cách tạo một vòng tuần hoàn ngoài cơ thể nhằm mục đích thông qua máy lọc lấy đi những chất cặn bã và nước dư thừa nhờ các cơ chế: siêu lọc, khuếch tán, đối lưu. Đa số bệnh nhân cần được chạy thận từ 12- 18 giờ/ tuần và thường định kỳ 3 lần/ tuần. Phẫu thuật tạo thông động tĩnh mạch để chạy thận định kỳ trên những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối là hết sức cần thiết. Phương pháp: Hồi cứu mô tả loạt ca. Kết quả: Nghiên cứu có tuổi trung bình 55,5 ± 15,1; nữ giới chiếm đa số, rối loạn chuyển hoá lipid máu, tăng huyết áp và đái tháo đường chiếm tỉ lệ lần lượt 97,9%, 94% và 79,2% mẫu nghiên cứu. Vị trí phẫu thuật vùng cổ tay giữa động mạch quay và tĩnh mạch đầu chiếm đa số, 50,6% mẫu nghiên cứu. Chúng tôi thường kèm thắt nhánh tĩnh mạch đường về sau khi phẫu thuật tạo thông động tĩnh mạch, chiếm 91,5% mẫu nghiên cứu. Tỉ lệ thành công về kỹ thuật đạt 96,2%. Tai biến ghi nhận nhiễm trùng vết mổ chiếm 7,7%; tụ máu chiếm 6,4%; và tắc mạch 1,7%. Tỉ lệ lưu thông mạch máu chiếm 82,3% mẫu nghiên cứu. Biến chứng trung hạn có hội chứng cướp máu bàn tay chiếm 10,6%; phù tay chiếm 5,1% mẫu nghiên cứu. Kết luận: Kết quả lưu thông mạch máu ở giai đoạn trung hạn của phẫu thuật tạo thông động tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn được hiện an toàn, hiệu quả, ít biến chứng.

Abstract

In Vietnam, it is estimated that about 8 million people have chronic kidney failure, of which stages III to V account for 3.1 - 3.6% 3. Today, hemodialysis is a popular method in the world, as well as in Vietnam. This is a method of filtering blood by creating a circulation outside the body to remove waste and excess water through the filter through the following mechanisms: ultrafiltration, diffusion, and convection. Most patients need dialysis 12-18 hours/week and usually three times/week. Arteriovenous bypass surgery for routine dialysis in patients with end-stage chronic kidney failure is essential. Methods: Retrospective description of case series. Results: The study had a mean age of 55.5 ± 15.1 years; Females make up the majority, and lipid metabolism disorders, hypertension, and diabetes account for 97.9%, 94%, and 79.2% of the sample, respectively. The surgical location of the wrist between the radial artery and cephalic vein accounted for the majority, 50.6% of the sample. We often ligate the returning venous branch after AVF surgery, accounting for 91.5% of the sample. The technical success rate reached 96.2%. The complications recorded as surgical wound infection accounted for 7.7%; hematoma accounted for 6.4%; and embolism 1.7%. The rate of primary patency accounted for 82.3% of the sample. Mid-term complications include steal syndrome, accounting for 10.6%; Hand edema accounted for 5.1% of the sample. Conclusion: The mid-term results in vascular primary patency of AVF in patients with chronic renal failure are safe, effective, and have few complications.