Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Khảo sát đặc điểm tế bào nội mô giác mạc ở bệnh nhân có hội chứng giả tróc bao tại Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Khảo sát đặc điểm tế bào nội mô giác mạc ở bệnh nhân có hội chứng giả tróc bao tại Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả
Đoàn Kim Thành; Lê Minh Tuấn; Lê Ngọc Vân Anh; Đặng Hoàng Long
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
297-300
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Khảo sát đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và đặc điểm tế bào nội mô (TBNM) giác mạc ở bệnh nhân có hội chứng giả tróc bao (GTB) tại bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, mô tả thực hiện trên 94 bệnh nhân bao gồm 50 mắt có biểu hiện hội chứng GTB và 50 mắt không có biểu hiện hội chứng từ tháng 11/2022 đến tháng 06/2023. Các bệnh nhân được thăm khám và chụp hình TBNM giác mạc bằng máy sinh hiển vi phản chiếu NIDEK CEM 530, ghi nhận các thông số dịch tễ, lâm sàng và đặc điểm TBNM. Kết quả: Tuổi và giới tính tương đồng giữa 2 nhóm đối tượng. Các thông số về thị lực, nhãn áp, cũng như độ sâu tiền phòng và phân độ đục thủy tinh thể không khác biệt giữa nhóm GTB và nhóm chứng. Mật độ TBNM trung bình ở nhóm GTB là 2513,08 ± 435,94 tế bào/mm2 thấp hơn so với nhóm chứng là 2669,26 ± 298,54 tế bào/mm2 (p = 0,043). Các thông số khác về đặc điểm TBNM không khác biệt giữa 2 nhóm. Kết luận: Bệnh nhân có biểu hiện hội chứng GTB có mật độ TBNM thấp hơn so với nhóm chứng có đặc điểm dịch tễ tương đồng. Cần lưu ý cẩn trọng đối với các phẫu thuật nội nhãn ở bệnh nhân GTB nhằm hạn chế mất bù nội mô sau phẫu thuật.

Abstract

To investigate epidermoloy, clinical characteristics, and corneal endotelial cells’ parameters in PEX patients. Methods: Cross-sectional study. 100 eyes were separated into 2 groups, with 50 eyes in the PEX group and 50 eyes in the normal group. Patients were examined, and information about epidermology and clinical characteristics was collected. Then, patients were taken for corneal endothelial cell imaging with specular microscopy (NIDEK CEM 530). Results: Age and sex distributions are similar between groups. There was no statistically difference between the PEX and the normal group’s visual acuity, intraocular pressure, anterior chamber depth, and cataract grade parameters. The average endothelial cell density (ECD) of the PEX group was 2513,08 ± 435,94 cells/mm2 and the result for the normal group was 2669,26 ± 298,54 cells/mm2 (p = 0,043). Other endothelial cells’ parameters are similar between 2 groups. Conclusion: Patients presenting with PEX have a lower ECD than controls with similar epidemiological characteristics. Caution should be exercised during intraocular surgery in PEX patients to limit postoperative endothelial decompensation.