Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Khảo sát mối tương quan giữa lách to (trên siêu âm) và mức độ giãn tĩnh mạch thực quản ở bệnh nhân xơ gan

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Khảo sát mối tương quan giữa lách to (trên siêu âm) và mức độ giãn tĩnh mạch thực quản ở bệnh nhân xơ gan
Tác giả
Hà Vũ; Ngô Thị Thanh Quýt
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD10
Trang bắt đầu
93-98
ISSN
2354-0613
Tóm tắt

Hiện nay có nhiều phương pháp không xâm lấn đã được nghiên cứu để tầm soát biến chứng giãn tĩnh mạch thực quản (TMTQ) ở bệnh nhân xơ gan. Tuy nhiên, mối tương quan giữa lách to (trên siêu âm) với mức độ giãn TMTQ vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ tại Việt Nam. Mục tiêu: Khảo sát mối tương quan giữa lách to (trên siêu âm) với mức độ giãn TMTQ ở bệnh nhân xơ gan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 225 bệnh nhân xơ gan tại Bệnh viện Thống Nhất. Các bệnh nhân được làm các xét nghiệm sinh hóa, nội soi tiêu hóa trên và siêu âm bụng. Tìm mối tương quan giữa sự hiện diện lách to (trên siêu âm) với sự giãn lớn của TMTQ ( độ 2, độ 3). Kết quả: Tỉ lệ giãn TMTQ trong dân số nghiên cứu là 82,7%, trong đó giãn lớn (độ 2, độ 3) là 60%. Tỉ lệ lách to (trên siêu âm) ở bệnh nhân xơ gan là 31,1%. Ở nhóm giãn TMTQ lớn (độ 2, độ 3), tỉ lệ lách to (trên siêu âm) là 78,57%, ngược lại ở nhóm giãn TMTQ nhỏ ( độ 0, độ 1), tỉ lệ lách to (trên siêu âm) là 21,43% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2 = 14,6, p = 0,005< 0,05). Kết luận: Lách to (trên siêu âm) là một phương pháp không xâm nhập có giá trị trong tiên đoán có giãn lớn TMTQ ở bệnh nhân xơ gan.

Abstract

Currently, many non-invasive methods have been studied for screening esophageal varices (EV) complications in patients with cirrhosis. However, the correlation between splenomegaly (on ultrasound) and the severity of EV has not been thoroughly studied in Vietnam.Objective: To investigate the correlation between splenomegaly (on ultrasound) and the severity of EV in patients with cirrhosis. Subjects and Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on 225 cirrhotic patients at Thong Nhat Hospital. Patients underwent biochemical tests, upper gastrointestinal endoscopy, and abdominal ultrasound. The study sought to find the correlation between the presence of splenomegaly (on ultrasound) and the presence of large EV (grade 2, grade 3). Results: The rate of EV in the study population was 82.7%, of which large EV (grade 2, grade 3) accounted for 60%. The prevalence of splenomegaly (on ultrasound) in cirrhotic patients was 31.1%. In the group with large EV (grade 2, grade 3), the prevalence of splenomegaly (on ultrasound) was 78.57%, whereas, in the group with small EV (grade 0, grade 1), the prevalence of splenomegaly (on ultrasound) was 21.43%. This difference was statistically significant (χ2 = 14.6, p = 0.005 < 0.05). Conclusion: Splenomegaly (on ultrasound) is a valuable non-invasive method for predicting the presence of large EV in patients with cirrhosis.