Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Khảo sát thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị ở người cao tuổi bị tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang năm 2023

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Khảo sát thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị ở người cao tuổi bị tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang năm 2023
Tác giả
Trần Huỳnh Thái; Trần Công Luận
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
404-409
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị ở bệnh nhân cao tuổi bị tăng huyết áp đang được điều trị ngoại trú tại các trạm y tế thuộc huyện Châu Thành A năm 2023. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị của bệnh nhân cao tuổi bị tăng huyết áp. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đã được chẩn đoán tăng huyết áp và điều trị ngoại trú tại các trạm y tế thuộc huyện Châu Thành A từ 04/2023 đến 09/2023. Kết quả: Nhóm bệnh nhân cảm thấy phiền phức khi theo sát kế hoạch điều trị tăng huyết áp (11,5%). Khó khăn trong việc nhớ sử dụng thuốc (29,5%), tình trạng thỉnh thoảng quên thuốc (37%). Biết về biến chứng của tăng huyết áp trên tim (14,5%), trên mạch máu (5,5%). Nhóm thuốc bệnh nhân sử dụng nhiều nhất là amlodipin 5 mg với tỷ lệ 71% và losartan 50 mg với tỷ lệ là 27,5%. Theo dõi huyết áp hằng ngày (12,5%), theo dõi khi có triệ chứng (52%). Hay quên uống thuốc (27%), do thiếu hỗ trợ (7%). Mức độ tuân thủ điều trị dân tộc Khmer cao gấp 13,5 lần so với dân tộc Kinh (P<0,001). Có sự khác biệt về mức độ tuân thủ điều trị giữa nhóm sống với vợ/chồng (0,19) và nhóm sống với con cái (0,22) với nhóm sống 1 mình (P=0,02 và P=0,01). Thời gian điều trị nhóm đối tượng dưới 1 năm (1) tuân thủ tốt hơn nhóm trên 3 năm (0,57), thấp hơn nhóm 1-2 năm (2,56) và 2-3 năm (1,78) (P<0,001). Mức độ tuân thủ điều trị của nhóm theo dõi huyết áp khi đi khám cao gấp 4,88 lần so với nhóm theo dõi huyết áp hằng ngày (P=0,04). Nhóm bệnh nhân tuân thủ điều trị có tỷ lệ kiểm soát huyết áp cao hơn 2,26 lần so với không tuân thủ (P<0,05). Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt chiếm (11,5%), tuân thủ điều trị kém chiếm (88,5%). Có mối liên hệ giữa tuân thủ điều trị với tình trạng gia đình, theo dõi huyết áp, yếu tố thời gian và dân tộc. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Abstract

Determination of treatment adherence rate in elderly hypertensive patients receiving outpatient treatment at health stations in Chau Thanh A district in 2023. Determinant factors related to the treatment adherence of elderly hypertensive patients. Methods: A cross-sectional with analysis on patients aged 60 years and older who were diagnosed with hypertension and treated as outpatients at medical stations in Chau Thanh A district from April 2023 to September 2023. Result: The group of patients found it difficult to follow the treatment plan for hypertension (11.5%). Difficulty remembering to use medication (29.5%), occasional forgetting to take medication (37%). Know about complications of hypertension on the heart (14.5%), on the blood vessels (5.5%). The group of drugs most used by patients was amlodipine 5 mg with the rate of 71% and losartan 50 mg with the rate of 27.5%. Daily blood pressure monitoring (12.5%), monitoring when symptoms (52%). Forgetting to take medication (27%), due to lack of support (7%). The degree of adherence to treatment for Khmer ethnic group is 13.5 times higher than that of Kinh ethnic group (P<0.001). There was a difference in the degree of adherence between the group living with a spouse (0.19) and the group living with children (0.22) and the group living alone (P=0.02 and P=0, 01). The duration of treatment in the group of subjects under 1 year (1) was better than the group of over 3 years (0.57), 1-2 years lower (2.56) and 2-3 years (1.78) (P<0.001). The level of treatment adherence of the blood pressure monitoring group when visiting the doctor was 4.88 times higher than that of the group with daily blood pressure monitoring (P=0.04). The group of patients who adhered to treatment had a rate of blood pressure control 2.26 times higher than that of non-adherent (P<0.05). Conclusion: The proportion of patients with good treatment adherence accounted for 11.5%, while poor adherence consisted of 88.5%. There is a relationship among treatment adherence with living with family members, blood pressure monitoring, treatment time and ethnicity. This difference is statistically significant (P<0.05).