Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu tỷ lệ mắc HPV và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở Hà Nội

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu tỷ lệ mắc HPV và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở Hà Nội
Tác giả
Nguyễn Duy Ánh
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
151-155
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu tỷ lệ mắc HPV và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở Hà Nội. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên 1176 phụ nữ có gia đình trong độ tuổi từ 18 đến 49 tại quận Cầu Giấy và huyện Đông Anh, Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn, khám phụ khoa và được lấy bệnh phẩm để xét nghiệm. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV là 9,27% (nhiễm typ 16 là 63,3%; typ 18 là 22,9% và cả hai typ là 13,8%). Phân tích đa biến mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và nhiễm HPV cho thấy các yếu tố sau làm tăng nguy cơ nhiễm HPV: Phụ nữ sống ở ngoại thành (OR: 2,9); có kiến thức và thực hành vệ sinh hàng ngày chưa đạt (OR: 3,6); đã nạo phá thai (OR: 2,1); có sử dụng thuốc tránh thai (OR: 2,7). Trong số phụ nữ bị viêm lộ tuyến cổ tử cung, tỷ lệ bị nhiễm HPV cao hơn nhóm không bị nhiễm (38,5% so với 25,3% với p < 0,05). Kết luận: Tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đã có chồng ở quận Cầu Giấy và huyện Đông Anh, Hà Nội là 9,27%. Phụ nữ sống ở ngoại thành, có kiến thức và thực hành vệ sinh hàng ngày chưa đạt, đã nạo phá thai; có sử dụng thuốc tránh thai, bị viêm lộ tuyến cổ tử cung thì có nguy cơ cao bị nhiễm HPV so với các nhóm phụ nữ khác.

Abstract

Our study investigates the prevalence of human papillomaviruses infection and other factors among women of reproductive age in Hanoi. Methods: This cross-sectional study selected 1176 married women of the age from 18 to 49 in Cau Giay and Dong Anh district of Hanoi. Each participant had an interview and a gynecological examination including HPV detection tests. Results: HPV was detected in 9,27 percent of participants (type 16 was found in 63,3%, type 18 was 22,9% and both types were 13,8%). Multiple regression model showed potential risk factors for HPV infections: living in suburban (OR 2,9), unqualified knowledge and practice of daily hygiene (OR 3,6), history of induced abortion (2,1), currently taking contraceptive drugs (OR 2,7). HPV infection rate was higher in group with cervical ectropion than group without cervical ectropion (38,5% vs. 25,3%, p<0,05). Conclusion: The prevalence of HPV infection among married women of reproductive age in Cau Giay and Dong Anh district of Hanoi is 9,27%. High-risk factors of HPV infection are living in suburban, having unqualified knowledge and practice of daily hygiene, having history of induced abortion, currently taking contraceptive pills and cervical ectropion.