Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nhân 6 trường hợp vỡ hình giọt lệ C2: Điểm lại y văn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nhân 6 trường hợp vỡ hình giọt lệ C2: Điểm lại y văn
Tác giả
Nguyễn Hoàng Long; Nguyễn Vũ Công Bảo Long
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
162-165
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả chùm ca bệnh vỡ hình giọt lệ (Teardrop) C2 tại khoa phẫu thuật cột sống, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, qua đó điểm lại y văn về phương pháp điều trị với loại tổn thương này. Phương pháp nghiên cứu: 6 bệnh nhân (5 nam 1 nữ), độ tuổi trung bình 41.33 ± 5.80, với chẩn đoán vỡ hình giọt lệ C2, được điều trị tại khoa phẫu thuật cột sống, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 1/2022 tới tháng 6/2023. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh, mô tả các đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và đánh giá kết quả điều trị của các bệnh nhân. Thời gian theo dõi sau điều trị trung bình là 4.83 ± 1.70 tháng . Kết quả: Trong số 6 bệnh nhân nghiên cứu, 4 bệnh nhân được điều trị bảo tồn bằng nẹp cổ cứng và 2 bệnh nhân được điều trị phẫu thuật cố định cột sống cổ lối sau. Trước điều trị, 5 bệnh nhân không biểu hiện triệu chứng thần kinh, 1 bệnh nhân có biểu hiện tổn thương thần kinh ASIA (C). Sau điều trị, bệnh nhân biểu hiện ASIA (C) cải thiện thành ASIA (D), các bệnh nhân còn lại không biểu hiện tổn thương thần kinh. Điểm VAS trung bình trước điều trị là 4.17 ± 0.47, sau điều trị là 1.17 ± 0.17. Không bệnh nhân nào gặp biến chứng sau điều trị. Tỷ lệ liền xương sau điều trị đạt 100%. Đối với nhóm bệnh nhân phẫu thuật, có 1 bệnh nhân biểu hiện triệu chứng thần kinh (ASIA C) kèm theo tổn thương phối hợp (đụng dập tuỷ, đứt dây chằng trên gai C4-5). Tỷ số mảnh bong trung bình của nhóm này là 39.43 ± 1.86 %, với mức độ di lệch trung bình là 8.82 ± 1.29 mm. Đối với nhóm bệnh nhân điều trị bảo tồn, tất cả các trường hợp đều là tổn thương vỡ hình giọt lệ C2 đơn thuần và không biểu hiện triệu chứng thần kinh. Tỷ số mảnh bong trung bình của nhóm này là 36.25 ± 0.70%, với mức độ di lệch trung bình là 4.49 ± 0.12 mm. Kết luận: Hầu hết các trường hợp vỡ hình giọt lệ C2 đơn thuần là tổn thương vững, không biểu hiện triệu chứng thần kinh và có thể điều trị bảo tồn. Chỉ định phẫu thuật được đặt ra khi tổn thương mất vững (mảnh vỡ lớn, di lệch nhiều, tổn thương phức hợp dây chằng đĩa đệm kèm theo) và/hoặc có biểu hiện khiếm khuyết thần kinh trên lâm sàng.

Abstract

This study aims to present a case series of C2 teardrop fractures treated at the Spine Surgery Department of Viet Duc University Hospital, while also conducting a comprehensive review of the existing literature concerning treatment approaches for this specific type of injury. Methods: Over the period from January 2022 to June 2023, six patients (comprising 5 males and 1 female) with confirmed diagnoses of C2 teardrop fractures were managed at the Spine Surgery Department of Viet Duc University Hospital. The study conducted an in-depth descriptive analysis of this case series, encompassing clinical attributes, diagnostic imaging, and the assessment of therapeutic outcomes for these patients. The average follow-up duration after treatment was 4.83 ± 1.70 months. Results: Among the cohort of six subjects under investigation, four patients received conservative treatment utilizing a rigid cervical collar, while two patients underwent surgical intervention involving posterior cervical spine fixation. Prior to treatment initiation, neurological symptoms were absent in five patients, whereas one patient exhibited ASIA (C) neurological injury indicators. Subsequent to treatment, the patient initially displaying ASIA (C) symptoms demonstrated an improved status at ASIA (D), and the remaining patients did not exhibit any neurological impairment. The average Visual Analog Scale (VAS) score, was 4.17 ± 0.47 prior to treatment and decreased to 1.17 ± 0.17 after the intervention. Notably, no complications were observed. The post-treatment rate of successful bone fusion reached 100%. In the subgroup subjected to surgical intervention, one patient showcased neurological symptoms (ASIA C) in conjunction with a concomitant injury (spinal contusion, rupture of the C4-5 supraspinous ligament). The average alvusion ratio within this subgroup was 39.43 ± 1.86%, with an average displacement of 8.82 ± 1.29 mm. On the other hand, the conservatively treated group, comprising 4 cases of isolated C2 teardrop injuries, presented no neurological symptoms. The average alvusion ratio for this group was 36.25 ± 0.70%, with an average displacement of 4.49 ± 0.12 mm. Conclusion: The majority of isolated C2 teardrop fractures exhibit stability, devoid of neurological manifestations, thereby supporting a conservative management approach. Surgical intervention is warranted when indications of instability are evident (e.g., substantial fragment size, pronounced displacement, intricate discoligamentous injuries), or when clinical signs of neurological impairment are apparent.