
Nghiên cứu nhằm phân tích đặc điểm vôi hóa trong xoang trên cắt lớp vi tính (CLVT) trong chẩn đoán viêm xoang do nấm (VXDN). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả trên 70 bệnh nhân viêm mũi xoang đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ tháng 01 năm 2022 đến tháng 07 năm 2023. Các bệnh nhân này đều được chụp CLVT xoang, sau đó được phẫu thuật nội soi xoang và được chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm nấm sau mổ. Kết quả: Tuổi trung bình là 5311,8; tuổi thấp nhất là 30 tuổi, cao nhất là 78. VXDN được chẩn đoán trên 60/70 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 86% trong đó có 46/60 bệnh nhân là u nấm xoang, chiếm 76,7%, số còn lại là VXDN xâm nhập mạn tính. Trên CLVT, vị trí vôi hoá của nhóm VXDN thường gặp nhất là ở trung tâm của xoang, chiếm tỷ lệ 84,9%, vôi hoá vị trí ngoại vi chỉ gặp ở 11,3% các trường hợp, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với P<0,01. Trong nhóm bệnh nhân VXDN, hình thái nốt vôi hoá hay gặp nhất là dạng đường, nốt chiếm tỷ lệ 69,8%, ít gặp nhất là dạng tròn, vỏ trứng chiếm tỷ lệ 3,6%. Vị trí vôi hoá của nhóm VXKDN gặp chủ yếu ở ngoại vi (75%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,01. Độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm tính của dấu hiệu vôi hoá trong xoang đối với chẩn đoán viêm xoang do nấm lần lượt là: Sn=88,3%; Sp=20%; ACC=78,6%., PPV=86,9%, NPV=22,2%. Kết luận: dấu hiệu vôi hóa trong xoang trên cắt lớp vi tính có giá trị cao đối với chẩn đoán viêm xoang do nấm.
The aims of this study was to analyze the characteristics of intra-sinus calcification on computed tomography (CT scan) in the diagnosis of fungal sinusitis. Material and Methods: Descriptive study on 70 rhinosinusitis patients examined at Hanoi Medical University Hospital from January 2022 to July 2023. These patients were all underwent a CT scan of the sinuses, then endoscopic sinus surgery and diagnosis confirmed by post-operative fungal testing. Results: Mean age was 53±11.8, the lowest age was 30 years old, the highest age was 78. Fungal sinusitis was diagnosed in 60/70 patients, accounting for 86%, of which 46/60 patients were sinus mycosis, accounting for 76.7%, the remaining was chronic invasive fungal sinusitis. On CT scan, the most common location of calcification was in the center of the sinus, accounting for 84.9%, calcification at the periphery was only seen in 11.3% of cases, this difference was statistically significant with p<0.01. In the group of fungal sinusitis patients, the most common calcification morphology was line-shaped, accounting for 69.8%, the least common was round, eggshell, accounting for 3.6%. The location of calcification in the non fungal sinusitis group was mainly found in the periphery (75%), the difference was statistically significant with p<0.01. The sensitivity, specificity, accuracy, positive predictive value, negative predictive value of calcification signs in the opacities in diagnosing fungal sinusitis were Sn=88.3%; Sp=20%; ACC=78.6%, PPV=86.9%, NPV=22.2%, respectively. Conclusion: intra-sinus calcification on computed tomography had a high value sign for diagnosing fungal sinusitis.
- Đăng nhập để gửi ý kiến