Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Phẫu thuật cắt thực quản nội soi trong điều trị ung thư thực quản: kinh nghiệm bước đầu tại bệnh viện trường đại học y dược cần thơ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Phẫu thuật cắt thực quản nội soi trong điều trị ung thư thực quản: kinh nghiệm bước đầu tại bệnh viện trường đại học y dược cần thơ
Tác giả
Phạm Văn Năng, Nguyễn Văn Tuấn, Mai Văn Đợi, Nguyễn Văn Hiên, Lâm Hoàng Huấn, Nguyễn Lê Gia Kiệt, Liêu Vĩnh Đạt
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
44
Trang bắt đầu
122
Tóm tắt

Hai phương pháp mổ mở cắt thực quản phổ biến của Ivor Lewis và cắt qua khe hoành điều trị ung thư thực quản có tỉ lệ biến chứng cao (20-46%). Gần đây, phẫu thuật cắt thực quản nội soi đã chứng tỏ là phương pháp an toàn, tỉ lệ tử vong thấp (1,4%-8%), thời gian nằm viện ngắn và kết quả về ung thư học tương đương với mổ mở. Chúng tôi báo cáo kinh nghiệm bước đầu về phẫu thuật cắt thực quản nội soi. Mục tiêu nghiên cứu: 1). Nhận xét về chỉ định và kỹ thuật mổ cắt thực quản nội soi; 2). Đánh giá kết quả của phẫu thuật nội soi cắt thực quản. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu hồi cứu, mô tả một loạt trường hợp ung thư thực quản có chỉ định mổ cắt thực quản nội soi từ tháng 01 năm 2015 đến tháng 9 năm 2021 tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Kết quả: Có 25 bệnh nhân (24 nam và 1 nữ), tuổi trung bình: 59 ± 9,2 tuổi (41-81 tuổi), thương tổn ung thư ở 1/3 giữa (40%) và 1/3 dưới thực quản (60%). Khi nội soi lồng ngực, có 2 ca không cắt được và được đặt stent thực quản cho một bệnh nhân và mở dạ dày nuôi ăn cho bệnh nhân còn lại. Có 1 trường hợp bị rách khí quản trong lúc phẫu tích. Các biến chứng sau mổ bao gồm: 9 (39,1%) bệnh nhân biến chứng hô hấp với 6 trường hợp viêm phổi và 3 trường hợp tràn dịch màng phổi đều ổn định sau điều trị nội khoa, 2 (8,7%) trường hợp xì miệng nối. Hai bệnh nhân xì miệng nối phải mổ lại và 1 trong 2 trường hợp này tử vong sau mổ. Thời gian nằm ICU trung bình: 4,2 ±2,4 ngày. Thời gian nằm viện trung bình là 18,2 ± 4,8 ngày. Số hạch trung thất nạo vét được trung bình: 9,1 ± 3,8 hạch, số hạch ổ bụng nạo vét được trung bình: 9,6 ± 1,5 hạch. Giải phẫu bệnh: 88% là loại carcinôm tế bào gai. Có một trường họp hẹp miệng nối. Kết luận: Phẫu thuật cắt thực quản nội soi điều trị ung thư thực quản là khả thi, tỉ lệ biến chứng và tử vong chấp nhận được

Abstract

Two common procedures for esophageal resection are Ivor Lewis esophagectomy and transhiatal esophagectomy. Both procedures have high morbidity rates of 20– 46%. Recently, minimally invasive esophagectomy (MIE) has proved to be safe with low morbidity, low mortality (1.4-8%), short hospital stay and similar oncological outcomes. We report initial experience of MIE for esophageal cancer. Objectives: 1.) To analyse the indications and operative techniques of MIE; 2) To determine the morbidity and mortality associated with MIE. Materials and methods: This was a retrospective study of patients undergoing MIE for esophageal cancer in our CTUMP hospital from January 2015 to September 2021. Results: Twenty-five patients with esophageal cancer were indicated for MIE, in which 23 patients underwent MIE and the remainder underwent palliative procedures: esophageal stent placement and feeding gastrostomy. The mean age was 59 ± 9.2 (range, 41–81). Cancer of the middle third esophagus was 40% and the remainder was the lower third (60%). Postoperative morbidity included 9 (39.1%) patients with respiratory complications (6 pneumonia and 3 pleural effusions) successfully managed by medications and two anastomotic leaks (8.7%). Reoperation was required in these two patients with anastomotic leaks and one of them died afterwards(4.3%). The median operative time was 470.2 ± 98.9 minutes. The median ICU stay was 4,2 ±2,4 days. The median hospital stay was 18.2 ± 4.8 days. The long-term morbidity was anastomotic narrowing observed in 1 patient. Squamous cell carcinoma was the most common histopathological result (88%). Conclusions: Minimally invasive esophagectomy for esophageal cancer has an acceptable morbidity and mortality when performed in the learning phase.