Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Sự thay đổi của các chỉ số nhân trắc lồng ngực trong phẫu thuật đặt túi độn ngực

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Sự thay đổi của các chỉ số nhân trắc lồng ngực trong phẫu thuật đặt túi độn ngực
Tác giả
Nguyễn Đình Minh; Trần Thiết Sơn; Lê Gia Vinh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD3
Trang bắt đầu
92-100
ISSN
1859-1868
Từ khóa nghiên cứu
Tóm tắt

Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá những thay đổi chính về số đo nhân trắc học trong phẫu thuât đặt túi độn ngực. Phương pháp: Nghiên cứu lâm sàng mô tả, tiến cứu với 50 bệnh nhân nữ được phẫu thuật đặt túi độn ngực tại bệnh viện E. Vật liệu cấy ghép được sử dụng là loại có kết cấu vi nhám, từ hai nhãn hiệu khác nhau (Motiva, Arion). Các chỉ số nhân trắc chính được khảo sát là: khoảng cách từ núm vú đến nếp gấp dưới vú (N-IMF), khoảng cách phức hợp giữa núm vú và quầng vú (N-N), khoảng cách từ rãnh ức đến Núm vú (SN-N) và hình chiếu của bầu ngực. Kết quả: Sự thay đổi nhân trắc học vú đáng kể nhất sau phẫu thuật tạo hình tuyến vú là khoảng cách N-IMF; nghĩa là, cực dưới của vú mở rộng, sau đó là sự gia tăng độ nhô của vú. Hầu hết các phép đo cho thấy sự ổn định từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 6 sau phẫu thuật.. Khi so sánh hình chiếu của mô cấy và hình chiếu của vú cuối cùng, người ta quan sát thấy rằng hình chiếu của vú cuối cùng tăng 47% độ nhô của túi ngực được đặt vào. Kết luận: Nghiên cứu này cung cấp một phân tích những thay đổi nhân trắc học trong nâng ngực và phục vụ như một công cụ dự đoán trong đánh giá trước phẫu thuật của bệnh nhân trong quá trình lập kế hoạch phẫu thuật.

Abstract

Breast implant surgery is increasingly popular, the follow-up of distant outcomes is mainly complications, there are very few studies focusing on the change in survey character after the study and time tracking. Objective: The objective of this study was to evaluate the main changes in the staff measure of breast implant examinations. Methods: A prospective, descriptive clinical study with 50 female patients undergoing breast implant surgery at E hospital. The graft material used was microstructured, from two different brands (Motivation, Arion). The only major survey multipliers surveyed were: distance from nipple to inframammary fold (N-IMF), complex distance between nipple and breast breast (N-N), distance from breast to nipple (SN-N) and breast projection. Results: The most significant breast anthropometric change after mastectomy was the N-IMF distance; that is, the lower pole of the breast enlarges, followed by an increase in the protrusion of the breast. Most of the measurements showed stability from the 3rd to the 6th month after surgery. When comparing the projection of the implant and the projection of the final breast, it was observed that the projection of the implant was observed. The final breast had a 47% increase in the protrusion of the implant inserted. Conclusions: This study provides an essential comparative analysis between anthropometric changes in breast augmentations and serves as a predictive tool in the preoperative evaluation of the patient during surgical planning