Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Yếu tố nguy cơ chảy máu tái phát của bệnh nhân u mạch thể hang não

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Yếu tố nguy cơ chảy máu tái phát của bệnh nhân u mạch thể hang não
Tác giả
Võ Hồng Khôi; Nguyễn Huệ Linh
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
127-131
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Phân tích yếu tố nguy cơ chảy máu tái phát của các bệnh nhân bị u mạch thể hang não tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 08/2018- 08/2019. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 45 bệnh nhân. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 1/1, tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 43,6. Vị trí tổn thương có 53,4% trường hợp tổn thương nằm trên lều tiểu não, 42,2% trường hợp tổn thương nằm dưới lều tiểu não và 4,4% trường hợp có cả tổn thương trên và dưới lều, trong 45 bệnh nhân có 52 tổn thương trong đó vị trí tổn thương thường gặp nhất ở thùy trán (21,1%), thứ hai là cầu não (17,3%). Hầu hết bệnh nhân có tổn thương kích thước dưới 30mm (96,2%), tổn thương thường biểu hiện bằng tín hiệu hỗn hợp trên xung T1W (55,6%), hỗn hợp trên xung T2W(53,3%), giảm tín hiệu trên T2*(100%). Không có mối tương quan giữa chảy máu tái phát với tuổi (p = 0,486), giới (p = 0,912), vị trí (p = 0,512), kích thước của tổn thương (p = 0,456). Kết luận: U mạch thể hang xuất hiện ở cả hai giới với tỷ lệ tương đương nhau, tuổi, giới của bệnh nhân và vị trí, kích thước của tổn thương không phải là yếu tố nguy cơ của chảy máu não tái phát.

Abstract

To analyze risk factors for recurrent bleeding of patients with cavernous angiomas at Bach Mai Hospital from August 2018 to August 2019. Subjects and methods: A cross-sectional descriptive study was performed on 45 patients. Results: The ratio of male to female was 1/1, the average age of the study subjects was 43.6. The lesion site had 53.4% of the cases of lesions located above the cerebellar tent, 42.2% of the cases were located below the cerebellar tent, and 4.4% of the cases had both above and below the tentacle, in 45 patients, there were 52 lesions, in which the most common lesion was in the frontal lobe 21.1%, the second was the pons 17.3%. Most patients have lesions less than 30mm (96.2%), lesions often show mixed signal on T1W pulse (55.6%), mixed signal on T2W pulse (53.3%), signal loss on T2* (100%). There was no correlation between recurrent bleeding with age (p = 0.486), gender (p = 0.912), location (p = 0.512), size of lesion (p = 0.456). Conclusion: Cavernous hemangioma appeared in both sexes with similar rates, the patient's age and sex and the location and size of the lesion were not risk factors for recurrent cerebral bleeding.