
U tế bào thần kinh đệm ít nhánh là một loại u thuộc nhóm sao bào và là một trong những khối u não nguyên phát ít gặp, thường gặp ở bán cầu đại não. U được chia làm 2 độ mô học là độ II và độ III, thường đáp ứng tốt với xạ trị. Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả một loạt ca bệnh. Phương pháp: Phân tích hồi cứu và thống kê mô tả 83 bệnh nhân được chẩn đoán, phẫu thuật và có kết quả giải phẫu bệnh là u tế bào thần kinh đệm ít nhánh tại Trung tâm Phẫu thuật thần kinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 4 năm 2021. Kết quả: Tuổi mắc bệnh thường gặp từ 30 đến 39 tuổi , tỷ lệ nam nữ là 1,075/1. Bệnh nhân thường bị đau đầu, nôn và có động kinh. Vị trí khối u hay gặp ở bán cầu đại não, nhiều nhất là thuỳ trán (49,39%). Hình ảnh vôi hoá đặc trưng cho u tế bào thần kinh đệm ít nhánh với 56,9% trên cắt lớp vi tính, và tính đơn ổ (85,54%), tính không đồng nhất (79,5%) là hình ảnh hay gặp của khối u này. Đa số u gặp u tế bào thần kinh đệm ít nhánh độ II và không có mối liên quan giữa lâm sàng, hình ảnh học và kết quả mô bệnh học. Kết luận: U tế bào thần kinh đệm ít nhánh thương gặp ở nhóm tuổi 30-39 tuổi, nam gặp nhiều hơn nữ. Triệu chứng hay gặp là đau đầu, nôn. Vị trí hay gặp là thuỳ trán, vôi hoá, tính đơn ổ và không đồng nhất là hình ảnh hay gặp trên cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ. U tế bào thần kinh đệm ít nhánh độ II hay gặp và không có mối liên quan giữa lâm sàng, hình ảnh học và kết quả mô bệnh học
Oligodendroglioma and anaplastic oligodendrogliomas are rare primary brain tumors And typically locates in the cerebral hemisphere. It is divided into grade II and grade III, and it responds well to chemotherapy. Study design: Cross-sectional study. Methods: We retrospectively reviewed eightythree patients with a histological diagnosis of oligodendroglioma tumor at the Neurosurgical center at Viet Duc University Hospital from January 2019 to April 2021 Results: The common age of the disease is from 30 to 39 years old, and the male-female ratio is 1.075/1. Patients often have headaches, vomiting, and seizures. The most common tumor location is in the cerebral hemisphere, and the frontal lobe is the most common (49.39%). The calcifications are typical for oligodendroma with 56.9% on computed tomography, and the monofocal (85.54%) and heterogeneity (79.5%) are common images of this tumor. Most of the tumors have grade II and there is no relationship between clinical, imaging, and histopathological results. Conclusion: Oligodendroglioma is common in the 30-39 age group, and more common in males than females. Common symptoms are headache and vomiting. Common locations are frontal lobes, calcifications, unifocal and heterogeneous are common images on computed tomography and magnetic resonance imaging. Grade II oligodendroglioma is common and there is no association between clinical, imaging, and histopathological findings.
- Đăng nhập để gửi ý kiến