Nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh từ 6/2014 - 6/2016 nhằm đánh giá đặc điểm lâm sàng và hiệu quả điều trị chấn thương mắt. Kết quả cho thấy chấn thương mắt chiếm 17,49% bệnh nhân điều trị tại khoa Mắt, trong đó nam giới chiếm 73,86%, chủ yếu trong độ tuổi lao động. Nguyên nhân chính là tai nạn giao thông (62,09%), tai nạn lao động và sinh hoạt.
Khoảng 74,18% bệnh nhân nhập viện trong 24 giờ đầu, nhưng vẫn còn nhiều trường hợp đến muộn. Điều trị chủ yếu bằng phương pháp phẫu thuật phục hồi giải phẫu và chức năng nhãn cầu (64,38%), không có trường hợp khoét bỏ mắt. Mặc dù tỷ lệ mù lòa khi xuất viện giảm so với lúc nhập viện, nhưng vẫn còn 13,97% mắt bị mù. Cần tăng cường tuyên truyền phòng tránh tai nạn mắt, tập huấn sơ cứu và nâng cao năng lực điều trị tại các tuyến y tế cơ sở.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương Mắt là một cấp cứu nhãn khoa thường gặp và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù loà ở nước ta và trên thế giới. Chấn thương Mắt là tổn thương về Mắt gồm vết thương xuyên thủng và chấn thương đụng dập, gây tổn hại thị lực do tai nạn gây ra, có thể xảy ra trong mọi tình huống và với tất cả mọi người. Ở Mỹ, mỗi năm xảy ra khoảng 2,5 triệu chấn thương Mắt, ở Đức tỷ lệ chấn thương Mắt là 23,2/100.000 người.
Ở Việt Nam chấn thương Mắt là vấn đề thời sự, có khoảng 20% các tai nạn dân sự bị chấn thương Mắt .Ở Bệnh viện Việt Nam - Ba Lan trong 2 năm 1991-1992 có 51,3% chấn thương Mắt dẫn đến mù lòa. Bệnh viện Mắt thành phố Hồ chí Minh 6 tháng đầu năm 2010 có 683 ca chấn thương Mắt trong đó, do tai nạn giao thông chiếm 10,7%, lao động sản xuất chiếm 51,7%, sinh hoạt chiếm 34,6% và trong thể thao chiếm 3%. Hậu quả để lại rất nặng nề, ảnh hưởng cả về chức năng thị giác lẫn thẩm mỹ. Bệnh viên Trung ương Huế tai nạn sinh hoạt 52,2%, hỏa khí 26,8%. Bệnh viện đa khoa Thái Bình (2002): tai nạn sinh hoạt 66,9%; tai nạn lao động 25,6%. Phú Yên tỷ lệ mù lòa do chấn thương Mắt trong dân chiếm 0,29%. Còn ở Hà Tĩnh cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu hoặc thống kê nào về chấn thương Mắt. Để góp phần trong công tác chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh đạt hiệu quả cao nhằm giảm tỷ lệ mù lòa do chấn thương Mắt chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị chấn thương Mắt tại khoa Mắt BVĐK tỉnh Hà Tĩnh" nhằm 2 mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng chấn thương Mắt
2. Đánh giá kết quả điều trị chấn thương Mắt
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Thị giác
1.1. Đặc điểm giải phẫu và tổ chức học của mắt
1.2. Các bộ phận bảo vệ mắt
1.2.1. Lông mày và lông mi
Là những bộ phận không cho mồ hôi và bụi rơi vào mắt.
1.2.2. Mi mắt
Mi trên do cơ kéo mi trên hoạt động nhằm bảo vệ mắt, trong khi ngủ, nhắm mắt là một phản xạ bảo vệ không cho ánh sáng vào mắt, giảm bớt nguồn kích thích bên ngoài, đồng thời không cho bụi hoặc dị vật rơi vào mắt. Khi thức người ta chớp mắt liên tục vì cơ kéo mi trên không thể co suốt ngày được.Như vậy, chớp mắt có tác dụng nghỉ ngơi và còn có tác dụng làm cho nước mắt dàn đều, làm cho mắt lúc nào cũng ướt, động tác chớp mắt còn có tác dụng đẩy ghèn ra ngoài.
1.2.3. Tuyến lệ
Có nhiệm vụ tiết nước mắt thường xuyên để bảo vệ giáp mạc, chỉ khi nào khóc thì nó mới tiết ra nhiều.
1.2.4. Ống lệ tị
Là ống dẫn nước mắt từ tuyến lệ ở khoé mắt xuống mũi, nước mắt sẽ dàn đều trong mũi và bốc hơi.
2. Cấu tạo của nhãn cầu
Nhãn cầu có đường kính trước sau khoảng 25 mm.
- Giác mạc: Ở phía trước trong suốt, chiếm 1/6 nhãn cầu.
- Kết mạc: màng mỏng trong suốt.
- Củng mạc: màu trắng đục.
- Hắc mạc. Lớp trong củng mạc:
+ Hắc mạc: là lớp có tế bào sắc tố, mạch máu, thể mi và mống mắt ở phần trước. Tác dụng của hắc mạc là tạo cho nhãn cầu một buồng tối.. Cơ thể mi và dây chằng Zinn có tác dụng làm cho thuỷ tinh thể tăng giảm độ cong, khi cơ này co làm chùng dây chằng Zinn thì thuỷ tinh thể co lại làm tăng độ cong.
+ Nếp gấp thể mi có tác dụng tiết thủy từ hậu phòng lưu thong ra tiền phòng qua lỗ đồng tử.
+ Mống mắt (tròng đen) được cấu tạo bởi hai loại cơ: vòng và dọc. Cơ vòng do thần kinh phó giao cảm chi phối, cơ dọc do thần kinh giao cảm chi phối. Khi cơ vòng co lại thì đồng tử co lại (thu nhỏ), khi cơ dọc co lại thì đồng tử giãn ra. Co hay giãn đồng tử có tác dụng điều hoà lượng tia sáng vào mắt, khi ánh sáng yếu hoặc nhìn xa thì đồng tử giãn ra, ngược lại, khi ánh sáng mạnh thì nó co lại. Mống mắt có liên quan tới sự lưu thông dịch nhãn cầu qua ống Schlemm, khi nhỏ atropin vào mắt thì đồng tử giãn ra và ống Schlemm bị ép lại, dịch không lưu thông được, làm tăng nhãn áp.
+ Võng mạc: là lớp tế bào thị giác nằm ở lớp trong cùng của nhãn cầu, võng mạc có nhiều lớp tế bào, trên cùng là lớp biểu mô sắc tố, lớp thứ hai là tế bào nón và gậy, tiếp theo là tế bào song cực, trong cùng là lớp tế bào đa cực, lớp này có những sợi trục họp thành thần kinh thị giác xuyên qua củng mạc ở điểm mù để vào não. Trên võng mạc có 7 triệu tế bào nón và 130 triệu tế bào gậy.
Tại điểm vàng có nhiều tế bào nón nên tiếp thu ánh sáng ban ngày tốt nhất. Càng đi ra phía trước thì càng nhiều tế bào gậy. Tác dụng của tế bào gậy là tiếp thu ánh sáng yếu ban đêm. Tại điểm mù không có tế bào thị giác, đó là nơi đi vào của thần kinh thị giác và các mạch máu vào ra.
3. Các môi trường chiết quang
Từ trước ra sau ta thấy
3.1. Giác mạc
Là màng trong suốt, hình mặt kính đồng hồ, không có mạch máu chỉ được nuôi dưỡng bằng hình thức thẩm thấu các chất ở tiền phòng. Giác mạc bị hỏng có thể ghép thay thế giác mạc của người khác.
3.2. Thuỷ dịch ở tiền phòng
Là một chất dịch do thể mi tiết ra thường xuyên và ra khỏi nhãn cầu ở góc tiền phòng nhờ ống Schlemm vào tĩnh mạch theo máu tuần hoàn. Khi bị tắc nghẽn đường này thì sinh bệnh tăng nhãn áp.
3.3. Thuỷ tinh thể
Được cấu tạo như một thấu kính hội tụ, mặt sau cong lồi hơn mặt trước, trong suốt. Thuỷ tinh thể được cố định bởi dây chằng Zinn, dây này có thể căng hoặc chùng do cơ thể mi điều khiển để làm tăng hoặc giảm độ hội tụ (độ cong) của thuỷ tinh thể gọi là điều tiết. Khi về già thuỷ tinh thể bị xơ cứng và giảm khả năng điều tiết, nên phải đeo kính lão, càng về sau thuỷ tinh thể bị đục có thể dẫn tới mù loà. Ngày nay, người ta có thể thay thuỷ tinh thể bằng thuỷ tinh thể nhân tạo.
3.4. Thuỷ tinh dịch (dịch kính)
Là dịch giống lòng trắng trứng, trong suốt nằm trong nhãn cầu, thể tích khoảng 4ml, mất đi không tái tạo lại được.
4. Đường dẫn truyền thần kinh thị giác và trung tâm thị giác
Thần kinh thị giác bắt nguồn từ các tế bào thị giác ở hai nửa của nhãn cầu rồi chui vào điểm mù và hình thành dây thần kinh thị (II), dây thị chia thành hai bó: bó phía thái dương đi vào dải thị cùng bên, bó phía mũi tréo sang phía bên kia ở tréo thị. Như vậy, mỗi dải thị được hình thành bởi hai bó thần kinh từ hai mắt và chạy vào thể gối ngoài rồi vào vùng chẩm.
Như vậy mỗi vùng chẩm của một bán cầu đại não nhận ánh sáng từ thị trường mũi phía bên kia và thị trường thái dương phía mắt bên này. Nói một cách khác, mỗi vùng chẩm nhận ánh sáng của hai nửa con mắt hợp lại. Nếu bị mù một mắt thì ánh sáng từ mắt còn lại sẽ chia thành hai nửa để đi vào cả hai vùng chẩm hai bên. Vì vây, nếu bị hỏng một mắt thì mắt còn lại vẫn nhìn thấy tất cả, nhưng hỏng một bên vùng chẩm thì chỉ nhìn thấy hai nửa của thị trường (bán manh).
5. Sinh lý học mắt
Hiện tượng quang học và sự hình thành hình ảnh của vật
Mắt có thể ví là một máy quay phim (camera). So sánh nhãn cầu với máy ảnh thì chúng có cấu trúc gần như nhau.
Sự thu nhận hình ảnh: nói chung một dụng cụ quang học tốt (máy ảnh) phải qua nhiều môi trường khúc xạ và có một trục quang học đúng trung tâm, còn mắt ta không đúng trung tâm lắm. Nói một cách khác, mắt ta không tốt bằng máy ảnh, nhưng nhờ có sự điều chỉnh để có một hình ảnh tốt là nhờ hoạt động của võng mạc và trung tâm thị giác ở vùng chẩm.
Theo nguyên lý quang học thì con mắt vẫn nhận được một hình ảnh nhỏ hơn thật và
đảo ngược.
- Đăng nhập để gửi ý kiến