Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Biến chứng nhiễm khuẩn tiết niệu trên bệnh nhân phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc do ung thư và chuyển lưu nước tiểu bằng ruột

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Biến chứng nhiễm khuẩn tiết niệu trên bệnh nhân phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc do ung thư và chuyển lưu nước tiểu bằng ruột
Tác giả
Phạm Hữu Đoàn; Vũ Lê Chuyên; Đỗ Vũ Phương; Dương Đăng Hiếu; Võ Thị Thanh Huyền
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
CD2
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá tỉ lệ mắc và chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) trong vòng 90 ngày đầu tiên sau phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc do ung thư và chuyển lưu nước tiểu bằng hồi tràng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thu thập 176 bệnh nhân được phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc do ung thư bàng quang từ 2020-2022 tại Bệnh viện Bình Dân; 68 (38,6%) bệnh nhân chuyển lưu nước tiểu theo phương pháp Bricker, 108 (61,4%) bệnh nhân tạo hình bàng quang trực vị. Chúng tôi phân tích về tỉ lệ mắc NKTN trong 90 ngày đầu sau phẫu thuật, thời gian NKTN, kết quả cấy và kháng sinh đồ, các yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ NKTN, mô tả các trường hợp can thiệp phẫu thuật. Kết quả: Tất cả có 49 (27,8%) trường hợp nhập viện do NKTN và 11 (6,3%) trường hợp NKTN tái phát, 4 (8,1%) bệnh nhân có tình trạng nhiễm khuẩn huyết. Cụ thể là, 12 (17,6%) trường hợp NKTN trong nhóm Bricker, 37 (34,2%) trường hợp NKTN trong nhóm trực vị. Nguy cơ NKTN ở nhóm trực vị cao gấp 2,29 lần so với nhóm Bricker (p<0,05). Chủng vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là trực khuẩn gram âm phổ biến nhất là E.coli, P. Aeruginosa và Klebsiella sp. Vi khuẩn đề kháng kháng sinh nhóm Quinolon và Cephalosporin >65%. Có 2 (4,08%) trường hợp phải can thiệp ngoại khoa gồm có 1 trường hợp mở thận ra da và 1 trường hợp phẫu thuật mở niệu quản ra da. Kết luận: NKTN là biến chứng và nguyên nhân phải nhập viện thường gặp nhất sau phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc do ung thư và chuyển lưu nước tiểu bằng ruột. Vi khuẩn gây NKTN phổ biến nhất là các trực khuẩn gram âm đường ruột. Trong 3 tháng đầu sau phẫu thuật, nguy cơ NKTN phải nhập viện ở bệnh nhân tạo hình bàng quang trực vị cao hơn so với bệnh nhân chuyển lưu nước tiểu theo phương pháp Bricker.