Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Biến đổi sức căng cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên sau can thiệp động mạch vành qua da

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Biến đổi sức căng cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên sau can thiệp động mạch vành qua da
Tác giả
Nguyễn Anh Tuấn; Nguyễn Thị Thu Hoài; Phạm Nguyên Sơn
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
05
Trang bắt đầu
19-27
ISSN
1859-2872
Tóm tắt

Khảo sát biến đổi sức căng cơ tim bằng phương pháp siêu âm đánh dấu mô 2D ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên sau can thiệp động mạch vành qua da thì đầu. Đối tượng và phương pháp: 118 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh sau can thiệp động mạch vành qua da thì đầu được điều trị tại Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 3 năm 2019. Nghiên cứu tiến cứu, mô tả, theo dõi dọc. Siêu âm đánh dấu mô 2D được thực hiện tại các thời điểm: Sau can thiệp 1 ngày, 3 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Phân tích hình ảnh bằng phần mềm EchoPAC 112 (GE, Hoa Kỳ). Kết quả: Tuổi trung bình: 64,73 ± 11,88; Nam giới: 81,4%; Killip I chiếm 75,4%; Chỉ số VĐV trung bình: 1,45 ± 0,23; EF trung bình: 45,29 ± 6,96%. GLS sau can thiệp 1 ngày giảm nặng hơn so với nhóm chứng (-11,91 ± 3,29% so với -20,41 ± 0,71%; p<0,001). GLS cải thiện dần theo thời gian. GLS sau can thiệp 3 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng lần lượt là -12,23 ± 2,79%; -13,36 ± 2,87%; -14,10 ± 2,55%; - 14,50 ± 2,40%. GLS của các động mạch thủ phạm LAD, LCX và RCA là không như nhau tại các thời điểm đánh giá sau can thiệp với p<0,001. GLS ở nhóm TMP < III giảm nặng hơn nhóm TMP III tại các thời điểm đánh giá sau can thiệp với p<0,05. GLS của các nhóm có phân loại EF khác nhau là không như nhau tại các thời điểm đánh giá sau can thiệp với p<0,001. Kết luận: GLS ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim có ST chênh lên sau can thiệp ĐMV qua da giảm nặng hơn so với người bình thường và xu hướng cải thiện dần theo thời gian. GLS ở các nhóm động mạch thủ phạm khác nhau, các nhóm EF khác nhau, giữa nhóm TMP III và TMP < III là khác nhau tại các thời điểm đánh giá sau can thiệp.

Abstract

To survey the change in myocardial strain by 2D speckle tracking echocardiography in patients with acute ST elevation myocardial infarction (STEMI) were treated with primary percutaneous coronary intervention (PCI). Subject and method: 118 STEMI patients after primary percutaneous coronary intervention hospitalized in Vietnam National Heart Institute from January 2016 to March 2019 were included. A cross-sectional descriptive and prospective cohort sudy. Two dimentional (2D) speckle tracking echocardiography was done for all patients within 24 hours after PCI, after 3 days, after 1 month, after 3 months and after 6 months. Echocardiography images were analyzed to assess GLS by EchoPAC 112 software (GE, USA). Result: Mean age: 64.73 ± 11.88 years. Male: 81.4%; Killip I: 75.4%; mean Wall Motion Score Index (WMSI): 1.45 ± 0.23; mean EF: 45.29 ± 6.96%. GLS of the patients after 1 day was worse than that of control subjects. GLS improved over time. GLS after 3 days, after 1 month, 3 months, 6 months were -12.23 ± 2.79%; -13.36 ± 2.87%, -14.10 ± 2.55%; -14.50 ± 2.40, respectively. GLS of culprit artery groups (LAD, LCX and RCA) were not the same at the evaluation times (p<0.001). GLS of TMP < III group was worse than that of TMP III group (p<0.05). GLS of different EF groups were not the same at the evaluation times (p<0.001). Conclusion: GLS by 2D speckle tracking echocardiography in STEMI patients after primary PCI was worse than that of normal people and improving trend over time. GLS of culprit artery groups, different EF groups, TMP < III and TMP III group were not the same at the evaluation times.