
Khảo sát kết quả phẫu thuật của bệnh nhân ung thư thanh quản sau cắt thanh quản toàn phần và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng tái phát và tử vong của người bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 64 bệnh nhân ung thư thanh quản được phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2021. Sau đó, theo dõi tình trạng tái phát và sống còn của bệnh nhân, thực hiện phân tích để đánh giá sự ảnh hưởng của một số yếu tố đến tỷ lệ tái phát và tử vong. Kết quả: Phần lớn bệnh nhân UTTQ là nam (96,9%) có tuổi dao động từ 30 đến 89 tuổi với tuổi trung bình là 64,4 ± 10,5 tuổi. Số ngày nằm viện sau phẫu thuật trung bình là 12,9 ± 3,8 ngày (8 - 28 ngày). Trong giai đoạn hậu phẫu, biến chứng bao gồm tụ dịch hố mổ và rò họng đều chiếm 9,4%, nhiễm trùng vết mổ chiếm 7,8%, viêm phổi là 4,7%, rò dưỡng chấp là 4,7%, chảy máu là 3,1%, hẹp lỗ mở khí quản là 3,1%, tràn khí dưới da là 1,6%. Bệnh nhân đều được điều trị ổn định ra viện 100%. Trong thời gian theo dõi ngắn nhất là 6 tháng và dài nhất là 4,5 năm ghi nhận 9 ca tử vong (14,1%), 6 tái phát (9,4%). Thời gian sống thêm không bệnh và sống thêm toàn bộ trung bình lần lượt là 45,3 ± 1,7 tháng và 42,5 ± 2,2 tháng. Tỷ lệ sống thêm không bệnh và sống thêm toàn bộ sau 3 năm là 88,1% và 82,2%. Thời gian sống thêm toàn bộ ở bệnh nhân có di căn hạch ngắn hơn bệnh nhân không di căn (p < 0,001). Kết luận: Kết quả phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần kết hợp hóa xạ trị có kết quả khả quan và hiệu quả khá tốt đối với bệnh nhân ung thư thanh quản khi không thể phẫu thuật bảo tồn.
The aims of this study were to assess surgical results of patients with laryngeal cancer after total laryngectomy and some factors related to recurrence and death of patients. Method: Retrospective study on 64 laryngeal cancer patients undergoing total laryngectomy at University Medical center HCMC from January 2018 to December 2021. Then, monitor the patient's recurrence and survival, perform analysis to evaluate the influence of several factors on the recurrence rate and mortality rate. Result: The majority of laryngeal cancer patients were male (96.9%) whose age ranged from 30 to 89 years old with a mean age of 64.4 ± 10.5 years. The average number of days in hospital after surgery was 12.9 ± 3.8 days (8-28 days). In the postoperative period, complications including surgical site fluid collection and pharyngeal fistula all were 9.4%, wound infection was 7.8%, pneumonia and chylous fistula all were 4.7%, bleeding was 3.1%, tracheostomy stenosis was 3.1%, subcutaneous pneumothorax was 1.6%. All patients were treated and discharged in 100% stable condition. During the shortest follow-up period of 6 months and the longest period of 4.5 years, 9 deaths (14.1%) were recorded, 6 recurrences (9.4%). The mean disease-free and overall survival were 45.3 ± 1.7 months and 42.5 ± 2.2 months, respectively. The disease-free and overall survival rates after 3 years were 88.1% and 82.2%. The overall survival time in patients with lymph node metastasis was shorter than in patients without metastasis (p < 0.001). Conclusion: The results of total laryngectomy combined with chemotherapy and radiation have positive results and are quite effective for patients with laryngeal cancer when conservative surgery isn’t possible.
- Đăng nhập để gửi ý kiến