Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Chỉ định và kết quả lọc máu liên tục ở trẻ sốt xuất huyết Dengue

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Chỉ định và kết quả lọc máu liên tục ở trẻ sốt xuất huyết Dengue
Tác giả
Nguyễn Hà Phương; Phùng Nguyễn Thế Nguyên; Đỗ Châu Việt
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
69-73
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Lọc máu liên tục cần thiết cho bệnh nhi sốt xuất huyết dengue có tổn thương các cơ quan. Nghiên cứu này khảo sát các chỉ định lọc máu và kết quả của phương pháp lọc máu liên tục ở trẻ sốt xuất huyết dengue. Đối tượng và phương pháp: hồi cứu mô tả chỉ định và kết quả của 40 trẻ sốt xuất huyết dengue nặng được lọc máu liên tục tại Khoa Hồi sức tích cực – chống độc, Bệnh viện Nhi Đồng 1 và Khoa Nhiễm, Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 01/01/2017 đến 31/12/2021. Kết quả: chỉ định lọc máu: 67,5% bệnh nhi chỉ định lọc máu liên tục là do tổn thương thận cấp, 27,5% quá tải dịch và tổn thương cơ quan nhưng không tổn thương thận cấp, 2 trường hợp (5,0%) bệnh nhân được lọc máu liên tục do suy gan cấp, toan chuyển hóa kéo dài. Tỉ lệ tử vong là 50%. Kết quả lọc máu: không có sự khác biệt giữa các đặc điểm dịch tễ học giữa nhóm sống và nhóm tử vong. Trong 6 giờ đầu sau khi tiến hành lọc máu, Glasgow không cải thiện ở cả 2 nhóm sống và tử vong. Điểm Glasgow có cải thiện thời điểm 24 giờ sau khi bắt đầu lọc máu ở nhóm sống nhưng không cải thiện ở nhóm tử vong thời điểm 24 giờ sau khi bắt đầu lọc máu. Trong 6 giờ đầu sau lọc máu điểm PRISM cải thiện ở cả 2 nhóm và khác biệt thời điểm này giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Tuy nhiên thời điểm 24 giờ sau khi bắt đầu lọc máu điểm PRISM chỉ cải thiện ở nhóm sống. Các xét nghiệm đa số cải thiện trong 24 giờ đầu lọc máu ngoại trừ Bilirubin máu và ở thời điểm 24 giờ sau lọc máu men gan, NH3, lactate máu, pH và HCO3-máu giữa hai nhóm sống và tử vong khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Nhóm sống có thời gian nằm khoa hồi sức lâu hơn nhóm tử vong và khác biệt này có nghĩa thống kê (P<0,05). Số lần lọc máu tối thiểu 1 chu kỳ và nhiều nhất là 12 chu kỳ. Kết luận: 67,5% bệnh nhân được lọc máu do tổn thương thận, 32,5% bệnh nhân được lọc máu không do tổn thương thận. Tỷ lệ tử vong là 50,0%. Thang điểm PRISM III cải thiện sau 24 giờ lọc máu ở nhóm sống so với nhóm tử vong. Lactate máu, HCO3- cải thiện sau 24 giờ lọc máu ở nhóm sống so với nhóm tử vong. Nhóm sống có thời gian nằm khoa hồi sức lâu hơn nhóm tử vong.

Abstract

Continuous Renal Replacement Therapy is essential for pediatric dengue hemorrhagic fever with organ involvement. This study investigates the indications for dialysis and the outcome of continuous dialysis in children with dengue hemorrhagic fever. Materials and methods: retrospectively describe the indications and outcomes of 40 children with severe dengue receiving continuous hemodialysis at the Intensive Care Unit - Anti-poisoning Department, Children's Hospital 1 and the Department of Infection, Children's Hospital 2 since January 1. January 2017 to December 31, 2021. Results: Indications for CRRT: 67,5% of pediatric patients indicated for CRRT due to acute kidney injury, 27,5% fluid overload and organ damage but no kidney damage, 2 cases (5,0%) were continuously dialysis due to acute liver failure, prolonged metabolic acidosis. Mortality rate: 50,0%. Result of CRRT: there was no difference between the epidemiological characteristics between the living and the dead groups. During the first 6 hours after dialysis, Glasgow did not improve in both survival and death groups. Glasgow score improved 24h after initiating dialysis in the living group, but did not improve in the death group 24 h after initiating dialysis. In the first 6 hours after dialysis, the PRISM score improved in both groups and the difference at this time between the two groups was statistically significant (P<0,05). However, at 24 h after initiation of dialysis, PRISM scores improved only in the surviving group. Most of the tests improved in the first 24 hours of dialysis with the exception of blood bilirubin and at 24 hours after continuous dialysis liver enzymes, NH3, blood lactate, pH and HCO3- blood between the two groups were significantly different between the two groups. millet (P<0,05). The group of surviving patients had a longer stay in the ICU than the group of dead patients and this difference was statistically significant (P<0,05). The minimum number of continuous dialysis sessions is 1 cycle of dialysis and at most 12 cycles. Conclusions: 67,5% of patients received CRRT due to kidney damage, 32,5% of patients received dialysis without kidney damage. Mortality rate was 50,0%. The PRISM III score improved after 24 h of dialysis in the living group compared with the death group. Blood lactate, HCO3- improved after 24 h of dialysis in the living group compared with the death group. The survival group had a longer stay in the ICU than the death group.