Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ động trong bệnh lý sa trực tràng kiểu túi ở nữ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ động trong bệnh lý sa trực tràng kiểu túi ở nữ
Tác giả
Lê Minh Lý; Nguyễn Ngọc Ánh; Nguyễn Văn Huy; Nguyễn Trung Vinh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
335-339
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Sa trực tràng kiểu túi (STTKT) là một bệnh lý phổ biến ở phụ nữ, gây ra các triệu chứng như rối loạn đại tiện và tiểu tiện, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Cộng hưởng từ động là phương pháp hữu ích trong chẩn đoán STTKT và đánh giá các yếu tố liên quan. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục tiêu mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ (CHT) động trong bệnh lý STTKT ở nữ tại Bệnh viện Triều An từ 05/2016 đến 06/2024. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 123 bệnh nhân nữ có triệu chứng rối loạn chức năng sàn chậu, được chụp CHT động tại Bệnh viện Triều An từ tháng 5/2016 đến tháng 6/2024. Kết quả: STTKT có 85/123 bệnh nhân có tỉ lệ 69,1%, kích thước trung bình túi sa 2,2 cm (0,6–4,7 cm) và kích thước cổ túi sa trung bình là 2,8 cm (0,3–6 cm). Sa trực tràng độ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất (34,1%), tiếp theo là độ 1 (28,5%) và độ 3 (6,5%). Phân loại theo Marti cho thấy Marti I (dạng ngón tay) chiếm 26,8%, Marti II (dạng túi tròn) chiếm 22,8% và Marti III (sa kèm lồng) chiếm 19,5%. Phụ nữ đã sinh con có nguy cơ mắc STTKT gấp 4,7 lần người không có con, trong đó bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng rối loạn đại tiện thì nguy cơ mắc STTKT gấp 4,2 lần người không có rối loạn đại tiện. Ngoài ra, sa khoang sau, sa tử cung và sa bàng quang cũng có liên quan đáng kể với STTKT (p<0,01). Kết luận: CHT động sàn chậu cung cấp đánh giá toàn diện và chính xác về sa trực tràng kiểu túi và các yếu tố nguy cơ liên quan. Việc sử dụng kỹ thuật này giúp cải thiện khả năng xây dựng các phương pháp điều trị phù hợp cho phụ nữ bị rối loạn chức năng sàn chậu, nâng cao kết quả lâm sàng.

Abstract

Rectocele is a common condition in women, which often presents with symptoms such as bowel and urinary dysfunction, significantly affecting quality of life. Dynamic magnetic resonance imaging (MRI) is a valuable tool for diagnosing rectocele and assessing related factors. Our study aimed to describe dynamic MRI characteristics in female with rectocele at Trieu An Hospital from May 2016 to June 2024. Methods: A cross-sectional study was conducted on 123 female patients with pelvic floor dysfunction symptoms, who underwent dynamic MRI at Trieu An Hospital from May 2016 to June 2024. Results: Rectocele was identified in 85 out of 123 patients (69.1%), with an average prolapse size of 2.2 cm (0.6–4.7 cm) and an average neck size of 2.8 cm (0.3–6 cm). Grade 2 rectocele was the most common (34.1%), followed by grade 1 (28.5%) and grade 3 (6.5%). According to the Marti classification, Marti I (finger-like shape) accounted for 26.8%, Marti II (round pouch) for 22.8%, and Marti III (rectocele with intussusception) for 19.5%. Women who had given birth had a 4.7 times higher risk of developing rectocele, and those with defecation disorders had a 4.2 times higher risk compared to those without. Additionally, posterior compartment prolapse, uterine prolapse, and bladder prolapse were significantly associated with rectocele (P<0.01). Conclusion: Dynamic pelvic MRI provides a comprehensive and accurate assessment of rectocele and its associated risk factors. Utilizing this imaging technique enhances the ability to develop tailored treatment approaches for women with pelvic floor dysfunction, improving clinical outcomes.