Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm hình ảnh của tổn thương vú ngấm thuốc không tạo khối trên cộng hưởng từ: Mối liên quan với khả năng ác tính

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm hình ảnh của tổn thương vú ngấm thuốc không tạo khối trên cộng hưởng từ: Mối liên quan với khả năng ác tính
Tác giả
Trần Thị Tuyết; Nguyễn Diệu Linh
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
75-79
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Phân tích đặc điểm hình ảnh của tổn thương vú ngấm thuốc không tạo khối (NME) ác tính trên cộng hưởng từ (CHT). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân (BN) nghi ngờ ung thư vú (UTV), được chụp CHT trước phẫu thuật và có hình ảnh của tổn thương ngấm thuốc không tạo khối trên CHT, đã được sinh thiết kim và/hoặc phẫu thuật làm mô bệnh học (MBH), thời gian từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 7 năm 2022 tại bệnh viện K. Xác định các đặc tính tổn thương ngấm thuốc không tạo khối trên CHT và đối chiếu với mô bệnh học: xác định độ nhạy (Se), độ đặc hiệu (Sp), giá trị dự đoán dương tính (PPV) được tính cho từng đặc điểm; xác định ngưỡng tối ưu cho chẩn đoán ung thư vú dựa trên đường cong ROC theo giá trị ADC. Kết quả: Nghiên cứu 48 tổn thương (48 BN) bao gồm 40 ác tính và 8 lành tính. Kết quả nghiên cứu thu được, tổn thương ngấm thuốc không tạo khối (NME) phân bố theo thuỳ có khả năng ác tính (p=0.048) với Se, Sp, PPV lần lượt là 57.5%, 87.5%, 95.8%, trong khi ngấm thuốc dạng đám nhẫn là đặc điểm gợi ý ác tính (p=0.017) với Se, Sp, PPV lần lượt là 62.5%, 87.5%, 96.1%. Khi kết hợp cả đặc điểm phân bố theo thuỳ và ngấm thuốc dạng đám nhẫn thì khả năng ác tính cao hơn đáng kể (p=0.039) với Se, Sp và PPV tương ứng là 66.67%, 100% và 100%. Đồ thị ngấm thuốc của NME không đáng tin cậy trong phân biệt tổn thương lành tính và ác tính (p>0.05). Phân tích đường cong ROC theo giá trị ADC ở dưới ngưỡng 1.33x10-3mm2/s gợi ý chẩn đoán ung thư vú (p=0.012) với Se, Sp, PPV và NPV tương ứng là 75%, 75%, 93.75% và 37.5%. Diện tích dưới đường cong (AUC) của giá trị ADC là 0.748. Kết luận: Tổn thương NME phân bố theo thuỳ, ngấm thuốc dạng đám nhẫn là các đặc điểm gợi ý ung thứ vú. Đồ thị ngấm thuốc của NME không đáng tin cậy trong phân biệt tổn thương vú lành tính và ác tính. Giá trị ADC có thể sử dụng trong phân biệt tổn thương vú NME lành tính và ác tính.

Abstract

Describing imaging characteristic of MRI in the diagnosis of malignant non-mass enhancement lesions (NME). Subject and methods: The patients with suspected breast cancer had preoperative MRI and had images on MRI of non-mass enhancement lesions. The patient underwent needle biopsy and/or surgery for histopathology from August 2020 to July 2022 at National Cancer Hospital. Determination characteristics of non-mass enhancement lesions on MRI and comparison with histopathology: sensitivity (Se), specificity (Sp), and positive predictive value (PPV) were calculated for each characteristic; determine the optimal threshold for breast cancer diagnosis based on the ROC curve according to ADC value. Results: This study included 48 NME lesions (48 patients) including 40 malignant and 8 benign. The results of the study showed that segmental distribution of non-mass enhancement lesions (NMEs) had the potential for malignancy (p=0.048) with Se, Sp, and PPV being 57.5%, 87.5%, and 95.8%, respectively. Clustered ring enhancement is a feature suggestive of malignancy (p=0.017) with Se, Sp, PPV being 62.5%, 87.5%, 96.1%, respectively. When combining segmental distribution and clustered ring enhancement, the probability of malignancy was significantly higher (p=0.039) with Se, 66.67%; Sp, 100%; PPV 100%. Kinetic curve analysis was not reliable for differentiating benign and malignant NME lesions (p>0.05). Analysis of the ROC curve by ADC value below the threshold of 1.33x10-3 mm2/s suggested a diagnosis of breast cancer (p=0.012) with Se, Sp, PPV, and NPV were 75%, 75%, 93.75%, and 37.5%, respectively. The area under the curve (AUC) of the ADC value is 0.748. Conclusion: In the current study, segmental distribution, and clustered-ring enhancement are features suggestive of breast cancer. Kinetic curve analysis was not reliable for differentiating benign and malignant NME lesions. The ADC value can be used to differentiate between benign and malignant NME lesions.