Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân xẹp đốt sống ngực do loãng xương

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân xẹp đốt sống ngực do loãng xương
Tác giả
Nguyễn Đình Hòa; Vũ Đức Đạt; Đoàn Thị Ngọc Hà
Năm xuất bản
2020
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
187-190
ISSN
1859-1868
Từ khóa nghiên cứu
Tóm tắt

Mục tiêu Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân xẹp đốt sống ngực do loãng xương. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang trên 65 BN xẹp đốt sống ngực do loãng xương tại khoa Phẫu thuật Cột sống - Bệnh viện Việt Đức từ tháng 6/2018 – 5/2019 Kết quả BN lớn tuổi (≥70 tuổi) chiếm tỉ lệ 49,2%.100% các đối tượng nghiên cứu có biểu hiện đau tại chỗ tương ứng với vùng tổn thương; có 70,8% đối tượng nghiên cứu biểu hiện hạn chế vận động ở các mức độ khác nhau; điểm VAS trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu trước BXM là 7,3 ±1,1. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có điểm VAS từ 7-8 chiếm tỉ lệ 60%;. T-score trung bình là - 3,6 ± 0,8. Chỉ số T- score lớn nhất được ghi nhận là -6,8; có 56,2% đốt sống xẹp loại 1, có 35,6% đốt sống bị xẹp xếp loại 2, chỉ có 8,2% đốt sống xẹp loại 3. Kết luận Bệnh nhân XĐS do loãng xương thường ở độ tuổi cao, đặc biệt tỷ lệ bệnh nhân trên 70 tuổi chiếm 49,2%. Số lượng bệnh nhân nữ giới (89,2%) cao hơn nhiều so với nam giới (10,8%).Tất cả bệnh nhân đều có đặc điểm lâm sàng là đau tương ứng với đốt sống bị tổn thương; hạn chế vận động xuất hiện ở phần lớn các BN xẹp đốt sống (70,8%). XĐS có thể xuất hiện tự nhiên ở những bệnh nhân loãng xương hoặc sau các chấn thương nhẹ như ngã ngồi, cúi… va đập vào cột sống. Những bệnh nhân xẹp một đốt sống (89,2%) hay xẹp hình chêm (56,2%) chiếm tỷ lệ cao trong nhóm nghiên cứu