
Điều trị nhắm trúng đích cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTP-KTBN) có đột biến EGFR giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cũng như thời gian sống thêm cho bệnh nhân. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào việc đánh giá kết quả điều trị ở những bệnh nhân mắc UTPKTBN có đồng đột biến gen EGFR, từ đó tiên lượng đáp ứng điều trị với thuốc EGFR-TKIs. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thuần tập hồi cứu được tiến hành dựa trên bộ dữ liệu giải trình tự gen thế hệ mới (NGS) từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 6 năm 2023. Tất cả bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: Nhóm bệnh nhân có đột biến gen EGFR đơn độc (nhóm 1), và nhóm bệnh nhân có đồng đột biến EGFR (nhóm 2). Kết quả: Trong số 109 bệnh nhân có đột biến EGFR, 72 bệnh nhân đáp ứng một phần (66,1%), 1 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn (0,9%) và 17 bệnh nhân bệnh ổn định (15,6%); 19 bệnh nhân có bệnh tiến triển (17,4%). ORR là 67,0% và DCR là 82,6%. PFS ở nhóm có đột biến EGFR đơn độc và nhóm có đồng đột biến EGFR tương ứng là 15,03 tháng (CI 95%: 13,17-16,89) và 11,00 tháng (CI 95%: 9,95-12,05) (p= 0,001). Trong số 43 bệnh nhân có đồng đột biến, nhóm mắc thêm đột biến ALK có PFS dài nhất (13,43 tháng), theo sau là nhóm mắc thêm đột biến PIK3CA (11,00 tháng), PFS ở nhóm có thêm đột biến MET thấp nhất (4,77 tháng). Kết luận: Kết quả điều trị nhắm trúng đích ở bệnh nhân có đồng đột biến thấp hơn so với bệnh nhân đợn đột biến EGFR. NGS nên thực hiện thường quy ở các bệnh nhân để xác định tình trạng đột biến gen trước khi điều trị đích.
Epidermal growth factor receptor tyrosine kinase inhibitors (EGFR-TKIs) administered as initial therapy enhance the quality of life for individuals diagnosed with EGFR mutation-sensitive non-small cell lung cancer (NSCLC). Our investigation focused on evaluating treatment outcomes among patients with EGFR-mutant NSCLC who exhibit concurrent gene alterations, aiming to ascertain their predictive significance regarding response to EGFR-TKIs treatment.Materials and Methods: A retrospective cohort study was conducted the next gene sequencing (NGS) data from January 2019 to Jun 2023. All patients were categorized into two groups: One comprising individuals with a single EGFR mutation (group 1), and the other consisting of patients with concurrent EGFR mutations (group 2). Results: 109 patients with EGFR mutation showed 72 patients had partial responses (66,1%), one had complete response (0,9%) and 17 patients had stable disease (15,6%); 19 patients had progressive disease (17,4%). The ORR was 67% and DCR was 82,6%. The PFS in the group with single EGFR mutation and concurrent gene alterations group were 15.03 months (CI 95%: 13.17-16.89) and 11.00 months (CI 95%: 9.95-12.05) (p= 0.001). Among the 43 patients with concomitant mutations, patients with ALK mutation had the longest PFS (13.43 months), followed by other PIK3CA (11.00 months) and the lowest PFS was MET application (4.77 months). Conclusion: This study has demonstrated the concurrent gene alterations in some patients with EGFR mutations, which leads to reduced outcome of EGFR-TKIs. Patients carrying KRAS, BRAF, ROS1, or MET mutations are considered to have less predictive value for positive treatment outcomes.
- Đăng nhập để gửi ý kiến