Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư vú thể dị sản tại Bệnh viện K

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư vú thể dị sản tại Bệnh viện K
Tác giả
Phùng Thị Huyền; Phan Khánh Toàn
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
268-272
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư vú thể dị sản. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu, trên 52 bệnh nhân ung thư vú thể dị sản tại bệnh viện K từ tháng 1/2019 đến tháng 6/2022. Các bệnh nhân được đánh giá một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hóa mô miễn dịch. Kết quả: Kích thước khối u trung bình là 3,7 ± 0,3 cm, Kkhối u ở giai đoạn T3, T4 chiếm 19,23%. 24 bệnh nhân (46,15%) có di căn hạch nách. Nhóm bộ ba âm tính chiếm tỉ lệ cao nhất với 75%; 15,38% có thụ thể nội tiết dương tính, HER2 âm tính, và 9,62% có thụ thể nội tiết âm tính, HER2 dương tính. Trên X quang tuyến vú, chỉ có 19,23% bệnh nhân có hình ảnh bờ tua gai điển hình và 17,31% có hình ảnh vi vôi hoá điển hình. Ngoài ra, chỉ có 20 bệnh nhân (38,5%) có hình ảnh điển hình của ung thư vú trên siêu âm. Kết luận: Ung thư vú thể dị sản thường được phát hiện khi u kích thước lớn, bệnh nhân ở giai đoạn muộn và có đặc điểm hoá mô miễn dịch hay gặp nhất là ung thư vú bộ ba âm tính, gợi ý đây là thể ung thư biểu mô vú có tiên lượng xấu.

Abstract

To assess the clinical and preclinical charecteristics of patients diagnosed with metaplastic breast cancer in Vietnam National Cancer Hospital. Patients and methods: The study was designed as a retrospective and prospective study, in which 52 patients were diagnosed with metaplastic breast cancer in Vietnam National Cancer Hospital from Jan 2019 to Jun 2022. We assessed clinicopathology characteristics of this group. Results: The mean tumor size was 3.7 ± 0,3 cm. 46.15% patients had lymph node metastasis (53.85%). Triple negative breast cancer accounted for the highest proportion with 75%. Besides, 15.38% had hormone receptor positive and HER2 negative, and 9.62% patients with hormone receptor positive and HER2 positive. On mammogram, only 10 patients (19.23%) with typical spiculated soft tissue mass and 9 patients (17.31%) with microcalcifications. In addition, only 20 patients (38.5%) had a typical image of breast cancer on ultrasound. Conclusions: In our study, metaplastic breast cancer is often detected when the tumor size was large, the patient was at a late stage, and the most common immunohistochemical feature was triple negative breast cancer, suggesting that this type of invasive breast cancer has a poor prognosis.