Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm thu dung, kết quả điều trị bệnh nhân bỏng trong 2 năm phòng chống dịch Covid-19

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm thu dung, kết quả điều trị bệnh nhân bỏng trong 2 năm phòng chống dịch Covid-19
Tác giả
1Ngô Minh Đức; Chu Anh Tuấn; Lê Quốc Chiểu; Đỗ Xuân Hai; Nguyễn Văn Duy
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
03
Trang bắt đầu
16-19
ISSN
1859-3461
Tóm tắt

Đánh giá một số đặc điểm dịch tễ, kết quả điều trị của bệnh nhân bị bỏng điều trị tại Bệnh viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác trong 2 năm phòng chống dịch bệnh Covid-19 (2020 - 2021). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 10.050 bệnh nhân bỏng điều trị trong 4 năm (2018 - 2021) tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia. Bệnh nhân được chia làm hai nhóm trước (2018 - 2019) và trong thời gian dịch bệnh Covid-19 (2020 - 2021) để so sánh. Kết quả: Bệnh nhân thu dung giảm (64,6% so giai đoạn trước dịch); lứa tuổi < 16 giảm, chiếm 37,7%; đối tượng có bảo hiểm y tế (BHYT) tăng, chiếm 87,1%; tỷ lệ nhập viện trong 24 giờ sau bỏng giảm mạnh (54,1% so với 87,4%, p < 0,001); không tăng nhiều vào tháng 6, 7, 8; bệnh nhân bỏng điện tăng cả về số và tỷ lệ (657 chiếm 16,7% so với 645 chiếm 10,6%, p < 0,05); diện tích bỏng là 9% diện tích cơ thể (DTCT) (3 - 18%) so với 7% DTCTC (3 - 15%) , p < 0,001), bỏng sâu là 3 (1 - 8) so với 2 (1 - 7) % DTCT, p < 0,01. Trong giai đoạn dịch Covid-19, ngày điều trị trung bình là 16 (10 - 29) ngày. Tỷ lệ tử vong là 3,3% (so với giai đoạn trước là 3,4%, p > 0,05). Ngày nằm viện của bệnh nhân tử vong là 11 (2 - 24) ngày so với 7 (2 - 14) ngày ở giai đoạn trước, p < 0,01. LA50 là 74% DTCT (so với 63% DTCT ở giai đoạn trước), bỏng sâu là 44% DTCT (so với 35%DTCT). Bỏng hô hấp có tỷ lệ tử vong là 39,6% (so với giai đoạn trước là 57,5%, p = 0,002). Kết luận: Trong khoảng thời gian dịch Covid-19 xẩy ra, bệnh nhân nhập viện điều trị giảm, tỷ lệ bỏng nặng cao hơn. Mặc dù tỷ lệ tử vong không đổi, các chỉ số chỉ ra chất lượng điều trị tốt hơn có thể do có nhiều điều kiện thuận lợi cho điều trị như mật độ bệnh nhân giảm, tập trung được nguồn lực.

Abstract

To evaluate some epidemiological characteristics and treatment results of burn patients treated at the National Park Service during 2 years of COVID-19 disease prevention (2020 - 2021). Subjects and methods: Retrospective study on 10,050 burn patients who were treated at the National Burn Hospital from 2018 to 2021. Patients were divided into two groups before (2018 - 2019) and during the COVID-19 epidemic (2020 - 2021) for comparison. Result: The number of patients entering treatment decreased (64.6% compared to the pre-epidemic period); the age group < 16 decreased by 37.7%, the population with health insurance increased by 87.1%; the rate of hospitalization in 24 hours after burns decreased sharply (54.1% compared with 87.4%, p < 0.001); did not increase much in June, August, August; patients with electrical burns increased in both number and percentage (657 accounted for 16.7% compared with 645 accounted for 10.6%, p < 0.05); burn area is 9 (3 - 18) vs 7 (3 - 15)% TBSA, p < 0.001, deep burn is 3 (1 - 8) vs 2 (1 - 7)% TBSA, p < 0.01. During the period of COVID-19, the treatment day is 16 (10 - 29) days. The mortality rate was 3.3% (compared to 3.4% in the previous period, p > 0.05). The hospital day the patient died was 11 (2 - 24) days compared with 7 (2 - 14) days in the previous period, p < 0.01. LA50 is 74% TBSA (compared to 63% TBSA in the previous stage), and deep burns are 44% TBSA (compared to 35% TBSA in the previous stage). Respiratory damage has a mortality rate of 39.6% (compared to 57.5% in the previous period, p = 0.002). Conclusion: During the COVID-19 epidemic period, the number of burn patients decreased, the rate of severe burns was higher. Although the mortality rate remained unchanged, the indicators pointing to a better quality of treatment may be due to many favorable conditions for treatment such as reduced patient density, and concentration of resources.