
Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá hiệu quả giảm đau morphin tủy sống kết hợp paracetamol truyền tĩnh mạch và diclofenac đặt hậu môn sau phẫu thuật lấy thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng có so sánh 02 nhóm là Nhóm M: Gây tê tủy sống bupivacaine 0,5 % 8 mg, fentanyl 20 mcg, phối hợp 100mcg morphin. Nhóm F: Gây tê tủy sống bupivacain 0,5% 8 mg, fentanyl 20 mcg. Sau phẫu thuật lấy thai cả 2 nhóm được sử dụng: paracetamol 1g/100 ml truyền TM giờ thứ 4 và giờ thứ 16; diclofenac 100 mg đặt hậu môn giờ thứ 10 trên sản phụ được gây tê tủy sống (GTTS) để PTLT tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Quảng Ngãi từ tháng 04/2020 đến 09/2021. Kết quả: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của sản phụ: Chỉ định PTLT vì vết mổ cũ chiếm tỉ lệ cao; nhóm M 46,6%, nhóm F 45%; nguyên nhân phẫu thuật do đường sinh dục (chuyển dạ không tiến triển, thai to, bất xứng đầu chậu) chiếm tỉ lệ 30% ở nhóm M và 18,3% ở nhóm F. Tuổi thai trung bình ở 2 nhóm M và F lần lượt là 38,7 ±0,93 và 39 ± 0,94. Đặc điểm sinh hiệu trước và trong phẫu thuật giữa 2 nhóm tương đương nhau. Thay đổi về tổng phân tích tế bào máu và sinh hóa giữa 2 nhóm trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt, có ý nghĩa thống kê. Hiệu quả giảm đau: Hiệu quả giảm đau trong phẫu thuật giữa 2 nhóm có sự khác biệt. Nhóm M có hiệu quả giảm đau tốt, đạt 96,7%; khá là 3,3%. Nhóm F, hiệu quả giảm đau tốt là 86,7%. Trong 2 giờ đầu sau phẫu thuật điểm đau VAS trung bình khi nghỉ ngơi và vận động đều nhỏ hơn 1. Điểm đau VAS trung bình khi nghỉ ngơi và vận động từ giờ thứ 2 tới giờ thứ 24 ở nhóm M nhỏ hơn nhóm F. Thời gian duy trì điểm đau VAS bằng 0 ở nhóm M kéo dài hơn nhóm F có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm M điểm đau VAS bằng 0 kéo dài 118,33 ± 39,10 phút. Đa số các sản phụ đều hài lòng về chất lượng giảm đau ở mức tốt và rất tốt. Kết luận: Giảm đau đa mô thức kết hợp morphin tủy sống, paracetamol truyền tĩnh mạch và diclofenac đặt hậu môn mang lại hiệu quả giảm đau tốt với thời gian giảm đau hoàn toàn kéo dài và điểm đauVAS trung bình trong suốt 24 giờ luôn < 2.
To describe some clinical and paraclinical characteristics and evaluate the effectiveness of multimodal analgesia on women after Cesarean section. Methods: Prospective study, comparative clinical intervention performed on pregnant women with Cesarean section receiving spinal anesthesia at Quang Ngai Hospital for Women and Children from April 2020 to September 2021. Results: Clinical and paraclinical characteristics: Indications for laparotomy because of accounts for the highest percentage; group M 46.6%, group F 45%. Next is the genital tract cause (non-progressive labor, large fetus, pelvic disproportion) accounting for 30% in group M and 18.3% in group F. The mean gestational age in 2 groups M and F is 38.7 and 39 week, respectively. The vital signs before and during surgery are similar between the two groups. Changes in the total blood count and biochemical analysis between the 2 groups are within normal limits. Effectiveness of pain relief: Group M had good pain relief efficiency of 96.7%; quite reached 3.3%. Group F had a good pain-relieving effect, accounting for a lower rate of 86.7%. In the first 2 hours after surgery, the average VAS pain score at rest and on movement was less than 1 point. The average VAS pain score at rest and exercise from the 2nd to the 24th hour between the 2 groups was statistically significant. Pain score in group M is always smaller than in group F. The time to maintain pain score at 0 VAS in group M is statistically significant longer than in group F. In group M, VAS pain score of 0 lasted 118.33 ± 39.10 minutes. Most women are satisfied with the quality of pain relief at a good and very good level. Conclusions: Multimodal analgesia combined with spinal morphine, intravenous paracetamol and rectal diclofenac provides good analgesic effect with prolonged duration of complete analgesia and mean VAS pain score during 24 hours is always less than 2.
- Đăng nhập để gửi ý kiến