Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá hiệu quả lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Thống Nhất Đồng Nai năm 2023

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá hiệu quả lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Thống Nhất Đồng Nai năm 2023
Tác giả
Nguyễn Thanh Hồng; Phan Thị Anh Vân; Lương Thị Kim Cúc
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
47-53
ISSN
2354-0613
Từ khóa nghiên cứu
Tóm tắt

Dùng lại quả lọc để giảm chí phí lọc máu là phổ biến ở các nước đang phát triển. Việc dùng lại nhiều lần làm giảm hiệu quả lọc máu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và làm tăng nguy cở tử vong. Vì vậy, việc đánh giá hiệu lọc máu là cần thiết. Các nhà thận học ở các quốc gia dùng 2 chỉ số URR và Kt/V để đánh giá hiệu quả các cuộc lọc, theo khuyến cáo KDOQI liều đủ tối thiểu Kt/ V≥1,2 và URR≥ 65%. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả lọc máu tại bệnh viện đa khoa thống nhất bằng chỉ sô Kt/V và URR và mối liên quan giữa 2 chỉ số Kt/V và URR với số lần dùng lại quả lọc Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 152 cuộc lọc máu của 152 bệnh nhân đang lọc máu chu kỳ ổn định, thỏa tiêu chí chọn vào. Các cuộc lọc chia làm 3 nhóm độc lập. Nhóm 1 là quả lọc lần 1; nhóm 2 là quả lọc lần 3; nhóm 3 là quả lọc lần 6. Các bệnh nhân dùng giống nhau về loại quả lọc Nikkiso, thể tích 1,5 m2, chất liệu Triacetat; dùng cùng loại máy rửa quả lọc; lấy máu xét nghiệm ure trước và sau lọc máu, ghi nhận cân nặng, thể tích siêu lọc, thời gian là 3,5 giờ và vận tốc bơm máu 220-230 ml/p Kết quả nghiên cứu: Nhóm tuổi 40-60 chiếm tỷ lệ (48,1%), BMI bình thường (70,4%), thời gian lọc máu < 5 năm (63,8%, tỷ lệ Nam / nữ =1,1. Tính chung trên 152 cuộc lọc, Chỉ số Trung bình URR là 67,36 ± 6,46 và Kt/V là 1,34 ± 0,2,. có 62,5% các cuộc lọc có URR đạt khuyến cáo; có 69,1% các cuộc lọc có Kt/V đạt khuyến cáo. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả lọc máu tính theo URR ( Nhóm 1, có 73,3% cuộc lọc có URR đạt; nhóm 2, có 68,9% cuộc lọc có URR đạt; nhóm 3, có 50,8% cuộc lọc có URR đạt. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả lọc máu tính theo kt/V (Nhóm 1, có 53,3% cuộc lọc có Kt/V đạt; nhóm 2, có 45,9% cuộc lọc có Kt/V đạt; nhóm 3, có 21,3% cuộc lọc có Kt/V đạt ). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả lọc máu tính theo URR và Kt/V trung bình giữa 3 nhóm dùng lại quả lọc, với p < 0,05. Hiệu quả lọc giảm dần có tính khuynh hướng. Kết luận: Chỉ số Trung bình URR là 67,36 ± 6,46 và Kt/V là 1,34 ± 0,23. Nhìn chung có 62,5% các cuộc lọc có URR đạt khuyến cáo; có 69,1% các cuộc lọc có Kt/V đạt khuyến cáo. Chỉ số Ure và Kt/V giảm dần theo số lần dùng lại quả lọc. Dùng lại quả lọc lần 6, hiệu quả lọc giảm có ý nghĩa.

Abstract

Reusing dialyzers to reduce costs is common in developing country. Resusing decreases dialysis efficiency, affects quality of life and increases the mortality. Therefore, evaluation of dialysis efficiency is necessary. Nephrologists in different countries use two indices, URR and Kt/V, to evaluate the effectiveness of dialysis, according to KDOQI recommendations, a minimum dose of Kt/V≥1.2 and URR≥65%. Objectives: To evaluate the efficiency of dialysis at Thong Nhat Dong Nai general hospital by using the Kt/V and URR indices and the relationship between the two indices Kt/V and URR with the number of times that the dialyzers is reused. Research methods: Cross-sectional descriptive study on 152 dialysis sessions of 152 patients on stable cycle dialysis who met the inclusion criteria. The dialysis sessions were divided into 3 independent groups. Group 1 used the totally new dialyzer; Group 2 used the third reused dialyzer; Group 3 used the 6th reused dialyzer. The patients used the same type of Nikkiso dialyzer, that had volume 1.5 m2, Triacetate material and the same type of dialyzer washing machine. The patients were taken blood for urea test before and after dialysis, recorded weight, ultrafiltration volume, time of 3.5 hours and blood pumping speed of 220-230 ml/min. Research results: Age group 40-60 accounts for the proportion of 48.1%, normal BMI (70.4%), dialysis time < 5 years (63.8%, male / female ratio = 1, 1. Overall, over 152 dialysis sessions, the Average URR Index was 67.36 ± 6.46 and Kt/V was 1.34 ± 0.2, 62.5% of dialysis sessions had URR meeting the recommendations; 69.1% of dialysis sessions had Kt/V meeting recommendations. There was a statistically significant difference in dialysis efficiency based on URR (Group 1, 73.3% of dialysis sessions had URR met; group 2, 68.9% of dialysis sessions had a satisfactory URR; in group 3, 50.8% of dialysis sessions had a satisfactory URR. The difference was statistically significant in dialysis efficiency calculated by kt/V. (Group 1, 53.3% of dialysis sessions had satisfactory Kt/V; group 2, 45.9% of dialysis sessions had satisfactory Kt/V; group 3, 21.3% of dialysis sessions had satisfactory Kt/V). There was a statistically significant difference in dialysis efficiency calculated in terms of URR and average Kt/V between the 3 groups using dialyzers again, with p < 0.05. Dialysis sessions efficiency tends to decrease gradually. Conclusion: Average URR is 67.36 ± 6.46 and Kt/V is 1.34 ± 0.23. Overall, 62.5% of dialysis sessions had URRs that met recommendations; 69.1% of dialysis sessions had Kt/V meeting recommendations. Urea and Kt/V indexes gradually decrease with the number of times the dialyzer was reused. Reusing dialyzer for the 6th time, the dialysis sessions efficiency decreased significantly.